The Unique



MẠNG 24=27 CÁI TÔI RẠNG RỠ

Lớp mình có 27 người, 8 nam và 19 nữ. Như thế là đều, đẹp đấy. Tớ vẫn tự hào vì mỗi lần khoe về lớp mình, tớ thấy đám bạn cùng trường ghen tị “con trai lớp Hương trông ngời ngời!”.

Nhưng cái chuyện ở lớp có đủ 8 khuôn mặt “ngời ngời” đã nằm ngoài mơ ước của cả 19 đứa con gái lớp mình.

Mỗi năm, mục đích nghỉ học của các cậu khác nhau. Hồi mới vào trường thì còn mải chơi và nghỉ xả hơi, ngủ bét nhè. Sau đó thì nghỉ vì game. Hồi Võ Lâm truyền kỳ, nghe đâu lớp mình khối chàng thức thâu đêm...

Bây giờ thì khác một chút. Vài người có mối làm ăn với báo, đài.

Hôm học phóng sự, Hồng có nói đến chủ đề “sinh viên “nghiện” làm thêm”. Tự dưng tớ vận vào lớp mình.

Hôm mùng 8 tháng 3, khi lớp mình đi nhậu. Hoàng và Thành Nam chúc rượu ở bàn tớ, tớ có nói rằng: “Mong rằng những học kỳ còn lại, bọn tớ sẽ thường xuyên được nhìn thấy các bạn trai”. Tớ không nói câu đó để đùa. Và Hoàng-với bộ mặt rất là “thật”-nói: “Bọn tớ hứa”... Tớ cũng chẳng nhớ, nhưng mà tớ biết là hứa suông, vì Hoàng luôn như vậy. Các cậu đang bận chén thù chén tạc.

Đúng rồi, các cậu có nhiều việc thật quan trọng, và cái tập thể của mình chỉ là nơi tập trung thi học phần thôi. Các cậu làm thêm, các cậu có nhiều việc riêng, các cậu ngủ khỏe ở nhà,... tớ không có quyền can thiệp. Chỉ có điều càng ngày thấy lớp mình càng xa lạ với nhau.

Đâu rồi cái ngày mùng 8 tháng 3 thi nấu ăn, rồi Hot Boy, Hot Girl? Những nỗ lực để lôi kéo mọi người lại gần nhau thật là khó. Có lẽ vì thế mà lớp mình thường kém trong bài tập nhóm, luôn bất đồng, chỉ lăm le làm riêng, 27 cái “tôi” rạng rỡ! Nhiều lần lớp đi chơi nhưng không bao giờ đủ người cho đến cuối cùng. Vì sao thế? Vì lớp mình cũng chia nhóm mà chơi. Vì những tấm lòng không muốn hòa nhập. Vì những cánh tay hờ hững đối với yêu thương.

“Cha chung không ai khóc”, mỗi người tự lo việc của mình. Nhưng khi có bài tập, kiểm tra trình thì nhăm nhăm chép bài đám con gái, hay là chép bài của Minh, Dũng. Sao lúc đó xích lại gần nhau ghê thế? Và khi điểm số, thưởng phạt có gì sai sót, rồi không đủ điều kiện thi học phần thì mới cuống lên, gọi điện ầm ầm. Không biết lớp mình đã có ai được “sắp mâm” sẵn chưa, mà có vẻ không quan tâm đến kết quả học tập thế nào, bị trừ điểm, khiển trách, cảnh cáo cũng chẳng sao.

Từ khi nhiều người đi làm thêm, tớ thấy có Minh vẫn giữ được phong độ học trên lớp. Ai cũng sút đi mà vẫn vui vẻ, yêu đời, chắc vì các cậu đã có sẵn năng khiếu chăng?

Trong lớp mình, tớ phục nhất là Hồng Bi, Nhung CNN. Nhung học 2 trường, dù nghỉ nhiều, nhờ người đi hộ, nhưng học hành rất ổn, vẫn dịch sách và đã có mấy cuốn được xuất bản. Hồng cũng học 2 trường, học thêm buổi tối, vẫn đi học đều, vẫn dịch tin cho HHT đều, mấy “ngón” trên mạng rất “nghề”, mấy phần mềm ứng dụng khá thạo, nấu ăn rất ngon. 2 đứa chúng nó vẫn làm nhóm rất tốt.

Giờ đã là kỳ thứ 6. Dù có chán đến đâu cũng nên xác định rõ mục đích của mình. Nếu thấy chán học thì nghỉ quách, đi làm luôn đi, nhưng có nghề ngỗng gì mà người ta cho làm hả giời?

ĐÂU DỄ KIẾM ĐƯỢC TIỀN CỦA THIÊN HẠ.

The Unique

Người ta nói: THÔ nhưng mà THẬT

Hỏi: “Theo mày, blog là gì?”

Đáp: Là thứ rác rưởi, là vớ vẩn, là giết thời gian, là không sống thật với chính mình.

Hỏi: Nhưng sao mày viết?

Đáp: Thì cũng rác cả thôi, giết thời gian!

Hỏi: Nó có phải là nhật ký?

Đáp: 1 phương diện nào đó.

ori: Tại sao?

Đáp: Nhật ký, người ta có thể viết nhiều thứ bí mật (vì thế mới giấu tiệt đi, ai tò mò đọc trộm là bị xỉ vả vô tội vạ). Còn blog, người ta đang tự quảng cáo bản thân đấy. Vì thế nó luôn nhiều cái tốt, cái gọi là “cá tính”. Có mấy ai đem chuyện xấu của mình ra cho cả thế giới biết? Đôi khi, họ sống như một con người khác, hay cố tỏ ra mình cá tính.

Hỏi: Còn mày?

Đáp: Cũng thế cả, làm vì giết thời gian, chán thì thôi, không ý nghĩa gì. Mày có nhớ không? Hôm tao với mày nói chuyện, tiết 1 thì mày nói gay gắt, quyết tâm vì câu chuyện là nóng hổi nhất. Đến tiết 2, khi mày đã có 45’ suy nghĩ, mày đổi lại hoàn toàn. Thế đấy. Blog là những con chữ đã được sàng qua vài lần, có sửa chữa chán rồi. Nó đã trở thành sản phẩm có gọt dũa, vì thế nó không còn giữ nguyên bản chất của nó. Cũng như tính định hướng của Báo chí thể hiện ở cách lựa chọn sự kiện, thể loại,...

Hỏi: Vậy mà K. nói blog thể hiện đúng là mày!

Đáp: Đánh đậm cá tính đấy, bằng cách chuyển tải mới đối với 100% sự thật. Nói chung thì sự thật luôn xù xì và thô ráp.

(Viết cho B.và K.)

The Unique

Tại sao -Tại sao có tục đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng đôi đũa trên bát cơm, cài quả trứng vào giữa hai chiếc đũa rồi thắp hương đặt lên trên đầu người chết suốt trong thời gian chưa nhập quan?

-Tại sao người ta cắm một cái cọc bằng kim loại suốt chân giường người chết?

-Tại sao khi chưa nhập quan, người ta luôn luôn thắp hương nến (nếu không có nến thì thắp ngọn đèn dầu) cho đến khi hạ huyệt không để tắt hương đèn?

-Tại sao hai bên hương án, phía gần kề áo quan, người ta đặt hai cây chuối con?

-Tại sao có tục dựng bó đuốc to ở giữa sân vào ban đêm trước lễ an táng (nếu để qua đêm), con cháu và thân nhân túc trực quanh linh cữu (lễ "Chúc thực" ban đêm, nghĩa là "lễ trồng bó đuốc"?)

-Tại sao có tục kiêng ngăn người nhà không được đứng cạnh thi hài mà khóc, tránh nhỏ nước mắt vào thi hài?

- Tại sao sau lễ nhập quan phải đốt lỗ hung (lỗ đào ở chính giữa giường người mới chết nằm khi chưa nhập quan. Chất đốt có thể dùng trấu, than , củi hoặc giẻ rách...).

-Tại sao lễ tang là việc buồn lại đốt pháo? (Tục này chỉ có ở thành phố đối với người già).

-Tại sao phải nhốt mèo khi nhà có người mới chết ?

-Tại sao khi người chết trong nhà, người ta phải trèo lên mái nhà dỡ một vài viên ngói, hoặc lá tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa)?

Những câu hỏi trên cùng có chung một câu trả lời: Đó là kinh nghiệm dân gian,dùng phép thuật điều hoà khí âm dương, thu hút tà khí để phòng chống hơi lạnh và phòng xa hiện tượng "Quỷ nhập tràng". Xuất phát từ kinh nghiệm, dần dần bắt trước nhau trở thành phong tục. Dùng khói lửa, ánh sáng mặt trời (đốt hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái nhà, mở rộng cửa, đào lỗ hung, đốt pháo...) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả trứng, cây chuối... để thu hút hơi lạnh (nếu bổ đôi quả trứng, có nhiều lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để đánh gió.). Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy qua xác chết, kiêng khóc nhỏ nước mắt vào thi hài hoặc cắm cọc kim loại dưới giường người chết, dỡ mái nhà... là những thuật triệt tiêu luồng điện âm dương hút nhau. Ngoài ra, những người đến dự lễ tang, nhất dự khâm liệm còn có những thuật khác để phòng chống hơi lạnh như ngậm gừng sống, uống nước lá nhót, ăn trầu và xông khói vỏ bưởi, bồ kết trước và sau khi đến lễ tang.

The Unique



Mỗi người bạn đều là một vì sao sáng trên bầu trời đêm. Những vì sao toả sáng cho mình trên con đường đi. Những vì sao thật gần mà cũng thật xa, tưởng như với tới được mà lại tít tắp...

Và dù nói thế nào thì với một người con gái, những người bạn LÀ CON TRAI vẫn luôn có vị trí thật đặc biệt.

Không biết với mọi người thì sao, nhưng mình luôn có cảm giác vui vẻ khi buôn dưa với những cậu bạn trai, cho dù mình không thích họ lắm, cho dù có nói chuyện hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì, cho dù họ nói gì mình cũng chẳng quan tâm, chẳng để ý, chẳng hiểu. Tóm lại, nhiều khi mình chỉ cần nghe và ừ hử theo, chứ cũng chẳng biết họ huyên thuyên cái quái gì nữa. Chả sao.

Rồi đến cả những cậu bạn mình tình cờ quen qua người khác hay là quen trên mạng. Nhiều khi nhắn tin mà họ đã dám bày tỏ tình cảm này nọ, tự dưng thấy con trai bây giờ sao mà XÔ BỒ thế không biết. “Ah, hồi đầu mình nghĩ chỉ trêu cậu thôi, nhưng hình như giờ không phải thế”, đại loại thế. Nhưng mình vẫn khoái, thế mới điên!

Biết là cái trò điện thoại ấy fí tiền rồi. Nhưng có cho tiền mình cũng không định gặp mặt. 1 là sợ ngta gặp 1 lần mà chạy luôn. 2 là mình gặp ngta 1 lần rồi mất ấn tượng đẹp. Thà cứ cho nó thực thực ảo ảo mà lại hoá hay. Kể cả anh Phiung, mình còn chả nhớ mặt từ hồi 1 năm trước nhưng 2 anh em vẫn chơi với nhau rất vui, như là người nhà. Sinh nhật 2 năm anh đều hát Happy birthday cho mình nghe. Bản thân mình không cần nhiều ở họ, chỉ là ai đó nói chuyện thôi.

Rồi mình thích cái cảm giác giận ngta bằng tin nhắn. Lâu lâu đánh 1 quả làm cho ngta fải lo lắng te te. Cũng vui, như kiểu giận dỗi và xin lỗi của cái bọn yêu nhau. Ờ, lại chuyện yêu đương, mình chúa ghét cái trò đó. Mất mấy ng bạn vì chuyện đó rồi mà. Đâu có nhất thiết 1 trai 1 gái chơi thân thân, vui vui là fải yêu đâu, đúng không?

The Unique



Nguyễn Hưng Quốc

Tiếng Việt: Mày, Tao, Mi, Tớ...

Kinh nghiệm rút ra từ nhiều năm dạy tiếng Việt ở hải ngoại cho tôi thấy, đối với những người mới học, trong tiếng Việt, có hai điều khó nhất: thanh điệu và cách xưng hô. Ðối với những ngoại quốc học tiếng Việt, hai cái khó ấy cơ hồ ngang nhau, dù cái khó thứ nhất, về thanh điệu, cần phải được ưu tiên khắc phục trước, để từ đó, học viên mới có thể phát triển được khả năng nghe và nói của họ. Ðối với học viên Việt Nam sinh trưởng ở nước ngoài, cái khó về thanh điệu thường không đến mức quá trầm trọng: dù chưa bao giờ chính thức học tiếng Việt, họ cũng đã từng nghe cha mẹ và bà con chuyện trò bằng tiếng Việt, đã quen với cái điệu lên bổng xuống trầm của tiếng Việt, vì vậy, thường, không cần có tài thẩm âm lắm, họ cũng có thể phân biệt được sự khác nhau giữa những chữ, chẳng hạn, MA, MÁ, MÀ, MẢ, MÃ, và MẠ. Tuy nhiên, cả người ngoại quốc lẫn người Việt sinh trưởng ở nước ngoài đều cảm thấy lúng túng về cách xưng hô trong tiếng Việt.

Mà không phải chỉ có những người mới học. Ngay cả những người sử dụng tiếng Việt cực kỳ thành thạo cũng có lúc, thậm chí, nhiều lúc cảm thấy bối rối trong việc xưng hô. Ai cũng biết cách xưng hô của người Việt chủ yếu dựa vào quan hệ đẳng cấp và tuổi tác. Ðẳng cấp thì có nhiều loại: không nhất thiết phải là chức vụ trong hệ thống công quyền, ngay cả thứ bậc trong gia đình hay một số nghề nghiệp trong xã hội cũng là những đẳng cấp cần tuyệt đối tôn trọng trong cách xưng hô. Ngày xưa, đẳng cấp là nguyên tắc chủ đạo. May là thời ấy, ý niệm tôn ti còn nặng nên người nào an phận người nấy, vấn đề xưng hô chắc không mấy khi cần phải đặt thành vấn đề; cứ hễ gặp người có chức tước cao hơn mình thì cứ cúi đầu và khom lưng xuống, “bẩm quan”, “bẩm cụ”. Muốn cho chắc ăn hơn nữa thì thêm tính từ “lớn” sau các chữ “quan” hay chữ “cụ” ấy. Những người làm quan được gọi là “quan”, đã đành. Những người không phải là quan nhưng trông có vẻ hơi sang sang một chút cũng được gọi là “quan”. Bác sĩ là “quan”: “quan đốc”. Nhà báo cũng là “quan”: “quan tham nhựt trình”. Không “quan” thì là “thầy”: nghề gì dính đến giấy mực đều là “thầy”: thầy thông, thầy ký, thầy cò, v.v… Từ 1945 đến nay, tất cả những kiểu xưng hô phong kiến như thế đều bị bỏ. Ngay những cách gọi “ông” hay “bà” cũng bị cho là khách sáo và cổ hủ: Bỏ. Cách xưng hô trở thành thân mật hơn: hễ ai bằng hoặc lớn tuổi hơn bố mẹ mình thì mình gọi là “bác”; trẻ hơn chút thì gọi là “chú” hay “cô”; bằng hoặc lớn tuổi hơn mình thì mình gọi là “anh” hay “chị”; trẻ hơn thì gọi là “em”. Ðại khái thế. Nguyên tắc thì đơn giản nhưng việc thực hiện không phải không phức tạp. Ðiều những người ngoại quốc học tiếng Việt thường phàn nàn nhất là: rất khó đoán tuổi người Việt Nam. Ai cũng có vẻ trẻ măng cả. Hơn nữa, trong các cuộc chuyện trò mặt đối mặt thì còn đỡ. Nói chuyện qua điện thoại mới khó. Làm thế nào để có thể xác định được ngay người ở đầu dây bên kia khoảng bao nhiêu tuổi để xưng hô cho thích hợp? Chịu. Thú thực, tôi đã bao nhiêu lần nghe các sinh viên nêu lên cái câu hỏi ấy. Vẫn không biết trả lời thế nào cho thực ổn.

Nguyên tắc dựa vào tuổi tác, tưởng dễ, cũng có vô số ngoại lệ. Ví dụ, với người trẻ hơn mình thì mình có thể gọi là “em”. Nhưng thế nào mới được gọi là trẻ hơn mình? Một tuổi? Năm tuổi? Mười tuổi? Ở lứa tuổi 20, việc xưng là “anh/chị” và gọi người khác là “em” trong những lần gặp đầu tiên có khi còn thể tất. Nhưng từ khoảng lứa tuổi 30, 40 trở lên, khi người ta đã có gia đình và đã có chút địa vị trong xã hội, việc xưng hô như thế rất dễ bị xem là suồng sã, thậm chí, lỗ mãng. Tôi có một người quen sau nhiều năm ở hải ngoại, cùng vợ về Việt Nam, gặp một số bạn bè mới. Ông ấy kể là, suốt cả hơn một tháng ở Việt Nam, ông vẫn không tránh được cảm giác kinh ngạc và bất bình khi nhiều người đàn ông ông mới quen, có khi, chỉ mới gặp lần đầu, đều gọi vợ ông là “em” và xưng “anh” một cách ngon ơ. Ông cảm thấy có cái gì như bị xúc phạm. Ngày trước, ở miền Nam, là một công chức thuộc loại khá cao, ông sống trong một môi trường khá nhiều lễ nghi. Lâu lắm, ông chưa nghe ai, trừ ông và những người thân trong gia đình, gọi vợ ông là “em” cả. Ông cứ đinh ninh chữ “em” ấy là một cái gì ít nhiều có tính độc quyền. Vậy mà…

Ngược lại, trong nhiều giới, đặc biệt là giới văn nghệ, không ít người chỉ muốn người khác gọi là “anh” hay “chị” thôi. Tôi nhớ, lần đầu tiên gặp Mai Thảo, tôi gọi ông là “bác”; ông xua tay: “anh đi.” Ừ, thì… “anh”. Tôi vừa gọi “anh” vừa thấy hơi ngường ngượng. Ông sinh năm 1926, lớn hơn tôi đến 30 tuổi. Riết, cũng quen dần. Sau đó, gặp Phạm Duy, lớn hơn tôi 35 tuổi, tôi cũng lại cứ anh anh em em. Sau đó, gặp Võ Phiến, lớn hơn Mai Thảo một tuổi và trẻ hơn Phạm Duy bốn tuổi, quen miệng, tôi cũng gọi bằng “anh”; ông có vẻ hơi… sửng sốt. Thoáng nhìn, tôi biết ngay, bèn đổi lại “bác”. Thì mọi chuyện lại yên ổn. Thành ra, ở đây, ngay trong giới văn nghệ, cũng chẳng có luật lệ gì cho việc xưng hô cả. Tuỳ người.

Những sự phức tạp, thậm chí, có thể nói lắt léo như thế đã có nhiều người đề cập. Trong bài này, tôi chỉ muốn đi vào một khía cạnh: tất cả những sự phức tạp và lắt léo trong cách xưng hô ấy tiết lộ điều gì trong văn hoá Việt Nam?

Tôi nghĩ đến hai điều:

Thứ nhất, qua việc sử dụng hệ thống từ vựng chỉ thân tộc làm đại từ nhân xưng, người Việt Nam đã biến gia đình thành hệ quy chiếu của quan hệ xã hội. Người nào ngang tuổi ông bà mình thì tự động trở thành “ông”, “bà”; người nào ngang tuổi chú bác cô dì thì tự động trở thành “chú”, “bác”, “cô”, “dì”; người nào ngang tuổi anh chị thì tự động biến thành “anh”, “chị”, v.v… Như thế, xã hội được xem như một gia đình mở rộng. Nền tảng của gia đình là huyết thống. Ðiều này, tôi nghĩ, giải thích tại sao người Việt không sử dụng một số từ như “vợ”, “chồng”, “dâu” và “rể” làm đại từ nhân xưng. Trước đây, đã có người nêu ý ấy. Cao Xuân Hạo phản bác: “thím” và “dượng” đâu khác gì “dâu” và “rể”? Cũng là những người ở ngoài huyết tộc cả thôi.[1] Tuy nhiên, tôi nghĩ, những trường hợp này không giống hẳn nhau. “Thím” và “dượng” là những cách gọi từ những người thuộc vai cháu; trong khi “vợ”/“chồng” và đặc biệt, “dâu”/“rể” là những thuật ngữ được dùng bởi những người đang đứng ở vai trên: cha mẹ. Người thuộc vai dưới phải chấp nhận vị thế của người trên, trong khi đó, người bề trên có quyền khống chế người dưới: vợ chồng phải biến thành “anh”/“em”; dâu và rể phải biến thành “con”/“cháu” mới thực sự biến thành những thành viên ruột thịt trong gia đình.

Xem xã hội như một gia đình mở rộng cũng là một điều hay. Ừ, thì… hay. Nhưng dở, cũng lắm chuyện dở. Dở nhất, theo tôi, là với cách nhìn ấy, người Việt Nam rất khó xây dựng được một xã hội công dân thực sự, ở đó, tư cách mỗi người được xác định bằng một tiêu chí duy nhất: luật pháp. Không phải ngẫu nhiên mà ở Việt Nam, chỉ có một nơi duy nhất cách xưng hô dựa trên hệ thống từ thân tộc hoàn toàn bị loại bỏ: toà án. Nghĩ cũng phải chứ. Chẳng lẽ quan toà lại phán: “cháu tuyên án bác 30 năm tù khổ sai vì tội giết người có vũ khí.” hay: “Anh phạt em 2 năm tù ở vì tội làm điếm.” Chẳng lẽ thế? Thế nhưng, tại sao trong các cơ quan công quyền khác, người ta lại cứ tiếp tục bác bác cháu cháu? Nghe, dễ tưởng là thân mật, thậm chí, dân chủ nữa, nhưng theo tôi, chính cái cách xưng hô như thế đã góp phần ngăn chận quá trình dân chủ hoá của Việt Nam: người xưng “bác” hay xưng “chú” có thể tiếp tục độc đoán và người xưng “cháu” tiếp tục chấp nhận những sự độc đoán ấy là những điều bình thường. Có thể nói, cách xưng hô như thế rất dễ làm triệt tiêu cảm giác phẫn nộ chính đáng của người dân khi đối diện với những sự bất công. Mà không có cảm giác phẫn nộ ấy thì sẽ không thể nào có được một xã hội công dân thực sự.

Thứ hai, cách xưng hô trong tiếng Việt cho thấy tính chất cụ thể trong ngôn ngữ và trong tư duy của người Việt. Chúng ta không hề có những khái niệm mang tính khái quát cao như các đại từ trong phần lớn các ngôn ngữ Tây phương: trong đối thoại, mỗi người, với tư cách cá nhân, đều thuộc một trong ba phạm trù: người phát ngôn (ngôi thứ nhất), người trực tiếp đón nhận việc phát ngôn (ngôn thứ hai); và người được đề cập đến trong nội dung của lời phát ngôn (ngôi thứ ba). Lấy tiếng Anh làm ví dụ: là kẻ phát ngôn thì ai cũng như nhau, cũng là “I” cả. Chuyện trò, tổng thống xưng “I” gọi “you” mà tên lính quèn cũng xưng “I” và gọi “you”. Trong tiếng Việt, chúng ta không có những khái niệm nào tương đương với những “I”, những “you” ấy. Hình như trong cách nhìn của nền văn hoá truyền thống Việt Nam, không có khái niệm cá nhân như một cái gì độc lập, chỉ được xác định bằng một tiêu chí duy nhất: hành ngôn. Cá nhân chỉ được định nghĩa theo các quan hệ nhất định: với người này, hắn là “ông”, với người nọ, hắn là “cha”, với người kia, hắn là “anh”, với người khác nữa, hắn lại là “em”, v.v…

Thử nghe lời nói này:

Lẹ lẹ lên nào. Coi chừng trễ chuyến bay bây giờ. Nội, nội đưa cái dù cho cháu cầm cho; còn ba đưa cái xách cho con. Còn anh nữa, anh cứ ra xe trước đi để em khoá cửa cho. À này..., mấy đứa xem giùm mấy cái cửa sổ phía sau mẹ đã khoá kỹ chưa? Lẹ đi. Trời ơi!

Chỉ qua mấy câu nói ngắn như vậy, chúng ta thấy là người phụ nữ đang nói chuyện với bốn, năm người khác nhau. Với mỗi người, chị làm một cuộc hoá thân: Với ông hoặc bà nội, chị xưng là “cháu”; với ba, chị xưng là “con”; với chồng, chị xưng là “em”, và với mấy đứa con, chị xưng là “mẹ”. Như vậy, người phụ nữ ấy thực sự là ai? Câu trả lời: không là ai cả. Chúng ta chỉ có thể xác định chị khi đặt chị trong mối quan hệ với những người khác. Ðặc biệt, tất cả những quan hệ ấy đều tạm thời: chúng thay đổi xoành xoạch. Mỗi sự thay đổi đều dẫn đến sự thay đổi trong tư cách của người phát ngôn. Có thể nói, với người Việt Nam, mỗi lần chuyện trò là mỗi lần đóng một vai nhất định: đóng vai ông/bà, đóng vai cha/mẹ, đóng vai con/cháu, đóng vai anh/em, v.v… Ðã vậy, người Việt còn có thói quen thích đóng các vai… giả. Ví dụ, một người đàn ông 50 tuổi có thể gọi một người đàn ông lạ khoảng 30 tuổi là “bác” và xưng là “cháu”: người ấy đang nhập vào vai đứa con của ông để gọi người khách. Ở Việt Nam, người ta gọi cách xưng hô như thế là lối nói khiêm. Trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng hay nhập vai con để gọi người phối ngẫu: vợ sẽ không gọi chồng là “anh” mà là “bố thằng cu” hay “bố nó” hay, gọn hơn, chỉ là “bố” suông thôi. Ngược lại, nói chuyện với chồng, người vợ có thể không xưng “em” mà lại xưng là… “mẹ”, kiểu:

“Bố ơi, chiều nay bố có đi Footscray không?”

“Có. Mẹ có cần gì không?”

“Ờ, bố mua cho mẹ thùng xoài nghe.”

“Xoài gì mà xoài. Mới ăn tuần trước mà. Ăn xoài nhiều nóng lắm, đâu có bổ béo gì...”

“Trời ơi, nóng với niếc gì, bố mày sao nhiều chuyện quá. Mùa này xoài đang rẻ, cứ cho con ăn cho đã. Hết mùa thì tụi nó lại nhịn.”

“Mẹ mày cứ hay chiều con...”

Ngày xưa, đặc biệt ở miền quê hay trong thơ văn, người ta còn cố gắng tránh tất cả mọi vai cụ thể như thế: người ta chỉ gọi là “ai” và xưng là “ai” một cách hết sức bâng quơ. Thuý Kiều nói với Kim Trọng: “Ðừng điều nguyệt nọ hoa kia / Ngoài ra, ai lại tiếc gì với ai.” Tản Ðà nói với người tình nhân không quen biết: “Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ / Ðể ai luống những nhớ ai hoài.” Thì cũng là những kiểu nhập vai giả, cái vai vô hình.

Nói chuyện là buộc phải đóng một vai nhất định. Do đó, trên nguyên tắc, bằng tiếng Việt, mọi cuộc đội thoại đều bất khả. Ðứng một mình, cá nhân sẽ không là gì cả. Mà đối thoại, nhất là tranh luận, cũng khó. Tôi đã chứng kiến, trong các cuộc họp hành, vô số những cuộc cãi cọ bằng tiếng Anh rất gay gắt. Cãi kịch liệt. Cãi đến nơi đến chốn. Thế nhưng, sau buổi họp, đâu lại vào đấy, mọi người lại là bạn bè, lại chuyện trò hoà nhã với nhau, như không hề có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên, cũng những người ấy, khi cãi với nhau bằng tiếng Việt thì lại khác. Khác hẳn. Ngay khi đang cãi cọ, người ta đã có thể linh cảm được là có cái gì đó đang đổ vỡ. Tại sao? Lý do chính, tôi đoán, chủ yếu là ở… tiếng Việt.

Mà thật. Cãi với nhau bằng tiếng Anh, mọi người đều bình đẳng ngay từ đầu: ai cũng là “I” và “you”. Từ vị thế bình đẳng ấy, người ta có thể an tâm tập trung vào lý luận để giành thắng lợi trong lý luận và bằng lý luận. Cãi với nhau bằng tiếng Việt thì khác. Từ khởi sự, đã có cái gì như không bình đẳng và cũng không sòng phẳng: người lớn tuổi hơn thì xưng “bác” hay “anh”, do đó, từ tiềm thức, đã mơ hồ cảm thấy mình đang ở thế bề trên, thế đàn anh; người trẻ hơn, ngược lại, phải xưng “cháu” hoặc “em”, do đó, cũng tự trong tiềm thức, đã có chút mặc cảm yếu thế. Ðể bù lấp cái mặc cảm yếu thế ấy, những người trẻ hơn, ngoài lý luận, thường tự động sử dụng một số biện pháp khác: khuôn mặt đanh lại một chút, giọng nói to lên một chút, giọng điệu chì chiết hơn một chút, chữ nghĩa nặng nề hơn một chút. Có khi người ta đổi cả cách xưng hô: bình thường thì anh anh em em; khi cãi nhau thì anh/chị với tôi. Ðối với những người tự đặt mình ở vị thế cha, chú, anh, chị… tất cả những điều ấy đều dễ dàng gây thương tổn. Nghe chữ “tôi” từ miệng một người vốn thường xưng “em” với mình, người ta dễ có cảm tưởng như bị hạ bệ hay bị phản bội. Cảm giác “đổ vỡ” không chừng xuất phát từ đó.

Cảm giác ấy càng rõ hơn khi vợ chồng cãi nhau. Bắt đầu cãi, đang tức, người vợ phải xưng “em”, càng dễ thấy… tức hơn. Cảm thấy như mình bị xử ép. Càng dễ bù lu bù loa hơn nữa. Vẫn thấy bị ép. Cứ phải xưng “em” là lại thấy bị ép. Bèn đổi thành “tôi” cho... ngang cơ. Chồng, chưa cần biết vợ nói đúng hay sai, chỉ cần nghe chữ “tôi” bất bình thường ấy, đã đùng đùng nổi giận, có cảm giác là vợ mình… hỗn láo, đòi đảo chánh… mình. Tôi tuyệt đối chống lại mọi hình thức bạo hành, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, nhưng tôi tin là tôi hiểu được lý do gì đã thúc đẩy nhiều gã đàn ông, trong những trường hợp như thế, đã không tự kìm chế được, phải vung tay lên: cái hắn muốn đánh, trước hết, là chữ. Chữ, chứ không phải là người.

Dĩ nhiên, cái gì cũng có mặt trái và mặt phải của nó. Tôi có người bạn lấy vợ Úc. Một lần, trong câu chuyện, anh buột miệng, nói: “Nghe vợ chồng người Việt Nam gọi nhau bằng anh em, nghe ‘đã’ dễ sợ!” Hồi nhỏ, nghe ba mẹ tôi gọi nhau bằng “mình”, tôi cũng có cảm giác “đã” tương tự. Vợ chồng tôi chưa bao giờ xưng “mình” với nhau, nhưng không hiểu tại sao, tôi cứ bị chữ “mình” ấy ám ảnh mãi. Một lúc nào đó, tôi chợt khám phá ra chữ “mình” ấy chứa đựng trong nó cả một triết lý về tình yêu của người Việt. Chứ còn gì nữa? Chúng ta đều hiểu ý nghĩa đầu tiên của chữ “mình” là bộ phận chính của thân thể. Trong những giờ vạn vật đầu tiên thời tiểu học, chúng ta đã học là thân thể người ta gồm ba phần: đầu, mình và chân tay. “Mình”, chiếm từ cổ xuống mông, là bộ phận lớn nhất của cơ thể, do đó, được đồng nhất với cơ thể: Nói “mình đầy mồ hôi” cũng là nói “cơ thể đầy mồ hôi”. Là toàn bộ cơ thể, “mình” biến thành “tôi”, ngôi thứ nhất số ít. Yêu nhau, khi hai biến thành một, người ta cho cái “mình” ấy cho người mình yêu: “mình” biến thành “em” hay “anh”, ngôi thứ hai số ít. Nhưng khi sự phân biệt giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai biến mất, khi “mình với ta tuy hai mà một”, “mình” tự động biến thành “chúng ta”, ngôi thứ nhất số nhiều. Như vậy, nếu dịch sang tiếng Anh, chỉ giới hạn trong phạm vi đại từ nhân xưng, chữ “mình”, tuỳ từng trường hợp, có thể là “I”, có thể là “you” và cũng có thể là “we”. Một chữ: ba ngôi.

Từ những sự biến nghĩa của chữ “mình”, chúng ta có thể loé thấy quan niệm của người Việt Nam về tình yêu và hôn nhân. Theo quan niệm đó, tình yêu không phải chỉ là một sự hoà nhập làm một; hai người yêu nhau không những chỉ thuộc về nhau. Đó là những quan niệm bình thường và quen thuộc ở khắp nơi. Với người Việt Nam, yêu nhau là đem cái chữ “mình” vốn chỉ cơ thể của mình tặng cho người mình yêu, là tự nguyện chuyển nhượng chủ quyền trên thân thể của mình cho người mình yêu, là dâng hiến cái mình của mình cho nhau. Hơn nữa, là biến người mình yêu thành cái “nhà”, thành không gian cư ngụ của mình: chỉ ở đó, người ta tồn tại.

Bởi vậy, riêng trong phạm vi xưng hô, nói tiếng Việt hay cũng được. Mà nói dở cũng được. Tôi không tin là, với tư cách người cầm bút, chúng ta có thể thay đổi được điều gì.

Viết bài này, tôi chỉ muốn gợi lên vài ý bâng quơ, vậy thôi.

4.2004

_________________________

[1]Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt Văn Việt Người Việt, Thành phố HCM: Nxb Trẻ, tr. 298 (chương “Mấy vấn đề văn hoá trong cách xưng hô của người Việt”). Về vấn đề xưng hô trong tiếng Việt, có thể xem thêm Võ Phiến (1999), Cảm nhận, California: Văn Mới, tr. 29-38 (chương “Cái tiếng mình nói”).

The Unique



Website: www.vietnammelody.com

Chỉ đạo nghệ thuật (chủ tịch HĐQT) - NSƯT Bá Quế

NSƯT Bá Quế, tên thật là Vũ Bá Quế, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1956 tại Hà Đông. Ông học âm nhạc từ khi lên 9 tuổi, đoạt giải nhất Liên hoan ca múa nhạc thanh thiếu niên từ năm ông mới 12 tuổi. Ông tốt nghiệp cử nhân ngành nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn và chỉ huy âm nhạc dân tộc tại Viện nghiên cứu âm nhạc Việt Nam, danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.

Bộ CD hoà tấu âm nhạc truyền thống hội nhập (kết hợp giữa giai điệu và âm sắc các nhạc khí dân tộc với phần hoà âm và tiết tấu hiện đại phương Tây) thống nhất với biểu tượng baquemusic ở góc phải phía trên từng CD, phát triển theo nhiều dòng âm nhạc như dòng âm nhạc của nsưt Bá Quế sáng tác và phối khí (The best of Ba Que), dòng nhạc dân ca (Những giấc mơ vàng), dòng nhạc Trịnh Công Sơn (Tự sự với Trịnh Công Sơn), dòng nhạc các ca khúc mang âm hưởng dân gian (Bà tôi) và dòng nhạc tiền chiến… Các album của từng dòng sẽ bắt đầu từ Vol1 và phát triển tiếp theo.

    1. Tự sự với Trịnh Công Sơn – Vol1

1. Ca dao mẹ 2. Tôi ơi đừng tuyệt vọng

3. Ru em từng ngón xuân nồng 4. Một cõi đi về

5. Diễm xưa 6. Ru ta ngậm ngùi

7. Ru tình 8. Hạ trắng

Năm 1978, NSƯT Bá Quế có vinh hạnh được nói chuyện với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại một buổi gặp mặt do Hội liên hiệp văn học nghệ thuật TP HCM tổ chức. Trong buổi nói chuyện, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có ý tưởng các ca khúc của ông được chuyển soạn và hoà tấu bằng dàn nhạc dân tộc. Suốt gần 30 năm qua, NSƯT Bá Quế mới có điều kiện để thực hiện ý tưởng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua CD “Tự sự với Trịnh Công Sơn – Vol1”. Đây là CD hoà tấu các ca khúc của TCS bằng các nhạc cụ dân tộc Tranh - Bầu – Sáo - Nhị đầu tiên và rất độc đáo. Độc đáo không chỉ bởi giai điệu các tình khúc nổi tiếng của Trịnh Công Sơn được cất lên bởi âm sắc của các nhạc khí dân tộc mà còn bởi lối hoà âm, phối khí hiện đại đa phong cách như R&B, Pop, Rock, Jazz mà trước đây chúng ta thường được nghe hoà tấu các nhạc cụ phương Tây theo phong cách pop hoặc Jazz. Đây quả là một món quà tuy có phần muộn màng nhưng đáng trân trọng của NSƯT Bá Quế đối với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng như những người yêu nhạc của ông. Bá Quế rất hy vọng vào sự đón nhận nồng nhiệt CD này từ công chúng và sẵn sàng khởi động cho CD “Tự sự với Trịnh Công Sơn – Vol2…

    1. Chốn Hà thành xưa – The best of Ba Que – Vol1

1. Chốn Hà thành xưa 2. Nhớ quê

3. Bức tranh phương Nam 4. Ru trăng

5. Thiên thần mùa xuân 6. Thế giới Châmp

7. Vịnh chúc vạn xuân 8. Czardas (Victtorio Monti)

Đây là CD tập hợp những tác phẩm hay nhất do NSƯT sáng tác và phối khí cho dàn nhạc dân tộc, là dòng nhạc chính thống nhất mà NSƯT Bá Quế theo đuổi nhiều năm nay với hy vọng có thể góp phần làm rạng danh âm nhạc Việt Nam ở nước ngoài. Với vốn kiến thức tổng hợp cả về nghiên cứu, sáng tác, chỉ huy và biểu diễn từ khoá học duy nhất của Viện âm nhạc Việt Nam từ giữa những năm 70 của TK trước, được đào tạo chính qui từ những giáo sư tiến sĩ đầu ngành như GS-NS Tô Vũ, GS Trần Văn Khê cùng 40 năm hoạt động âm nhạc, NSƯT Bá Quế đã chắt lọc được những giai điệu dân tộc mượt mà trong tất cả các sáng tác của mình. Với quan điểm hội nhập trong bối cảnh hiện nay, phong cách phối khí hiện đại, sự thể hiện kỹ thuật diễn tấu các nhạc cụ dân tộc trong các tác phẩm của ông + giai điệu hết sức Việt Nam đã tạo cho ông uy tín và chỗ đứng nhất định trong làng âm nhạc dân tộc. Khởi đầu cho mơ ước hội nhập có lẽ là việc tác giả John Trinh và Vivian Kleiman (Mỹ) đã đặt mua 3 tác phẩm của ông trong CD này để minh hoạ cho bộ phim tài liệu “Chất độc da cam: 30 năm sau”. Đối với người yêu nhạc dân tộc, CD này là một CD đáng nghe bây giờ và cho nhiều năm sau.

    1. Những giấc mơ vàng – Vol1

1. Lý trăng soi 2. Cây trúc xinh

3. Lý hoài nam 4. Se chỉ luồn kim

5. Ru con 6. Ru em

7. Qua cầu gió bay 8. Lý chiều chiều

CD tập hợp các bài dân ca nổi tiếng nhất của 3 miền, được phối khí (cover) lại hiện đại nhưng vẫn giữ được những tính chất âm nhạc của từng vùng miền. Giọng hò thiết tha của ca sĩ Minh Huyền ở phần đầu 2 bài “Lý hoài Nam” và “Ru con” sẽ giúp công chúng có một bữa tiệc có nhiều lựa chọn cho khẩu vị của mình. “Những giấc mơ vàng” là tựa đề của album cũng thể hiện ý đồ của NSƯT Bá Quế trong 1 CD mượt mà và bay bổng thế này. Tác giả cũng sẽ tiếp tục thực hiện “Những giấc mơ vàng” Vol2, Vol3 vì kho tàng dân ca Việt Nam là rất lớn mà ít nhạc sĩ khai thác cũng như công chúng chắc hẳn ai cũng muốn có những giấc mơ thật tuyệt vời khi nghe dòng nhạc này.

    1. Bà tôi - Những ca khúc mang âm hưởng dân gian – Vol1

1. Bà tôi 2. Lòng mẹ

3. Ca dao em và tôi 4. Chị tôi

5. Về quê 6. Dáng đứng bến tre

7. Mấy nhịp cầu tre 8. Mưa trên phố Huế

CD tập hợp 8 ca khúc mang âm hưởng dân gian nổi tiếng, đã quá quen thuộc với công chúng. Đặc biệt là ca khúc “Bà tôi” của Nguyễn Vĩnh Tiến do Ngọc Khuê thể hiện là gần đây nhất đã được bầu chọn bài hát của tháng 7 – chương trình Bài hát Việt 2005, cũng là đề tựa của album. Sau tiếng vang của “Bà tôi” từ chương trình BHV, ra đường hay thấy trẻ con cũng lẩm bẩm “héo mòn một xâu”, nay công chúng sẽ lại được thưởng thức lại bài hát này với âm sắc của Tranh Bầu Sáo Nhị trên nền nhạc Rock.

Một kỷ niệm đặc biệt về album này là album được thu âm và mix tại phòng thu Kiên - Quyết, phòng thu của nhạc sĩ Phan Cường - nhạc sĩ phối khí hiệu quả bài “Bà tôi” và chính Phan Cường cũng là thính giả đầu tiên được nghe album này. Nhạc sĩ Phan Cường hết sức bất ngờ với hiệu quả hoà tấu ca khúc này của NSƯT Bá Quế và chúng tôi cũng hy vọng sẽ dành cho độc giả những bất ngờ với 8 ca khúc trong album “Bà tôi”.

The Unique



HẠT CƠ BẢN

Tiểu thuyết của tác giả Michel Houellebecq-NXB Đà Nẵng và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây

Cao Việt Dũng dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: Les Particules Élémentaires

Giá 55.000đ, tìm mua tại Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây

Bài giới thiệu của dịch giả Thuý Toàn

(chủ tịch Hội đồng văn học dịch-Hội nhà văn Việt Nam)

Michel Houellebecq sinh năm 1958, là một trong những nhà văn Pháp nổi tiếng nhất hiện nay. Các cuốn tiểu thuyết của ông: Extension du domaine de la lutte (Mở rộng phạm vi đấu tranh-1994), Les particules élémentaires (Hạt cơ bản-1998), Plateforme (2001), La possibilitié d’une ile (2005) đã làm dấy lên những tranh luận gay gắt xung quanh quan điểm của ông về xã hội phương Tây hiện nay.

Nội dung của Hạt cơ bản là chuyện đời của anh anh em cùng mẹ khác cha: Bruno và Michel. Thông qua câu chuyện này, tác giả tìm cách lý giải các hiện tượng xã hội, ảnh hưởng và tàn dư của lối sống đó lên cuộc sống hiện tại, mở đầu bằng việc nhà khoa học Michel xin nghỉ làm tại Trung tâm Khoa học quốc gia Pháp sau 15 năm làm việc để dành thời giai tiến hành những nghiên cứu mang ý nghĩa lớn cho loài người, câu chuyện tiếp đó quay về những trích đoạn cuộc sống sau này của họ. Ở Bruno, khía cạnh nổi bật là ham mê tình dục đến mù quáng, còn Michel thì hoàn toàn ngược lại; anh là con người của lý trí, dịu dàng và luôn hướng tới một đạo đức theo lối của triết gia Kant. (...)

Michel và Bruno như sống bên lề của những biến chuyển xã hội phương Tây, luôn thấy cuộc sống nhàm chán, trống rỗng và đáng căm ghét. Thông qua cuộc đời họ, được người ta nhận ra sự xuống dốc không phanh của các giá trị phương Tây, cơn cuồng loạn của chủ nghĩa tiêu dùng, sự đe doạ của nhân bản cô tính, tính huỷ diệt của cá chuẩn mực tự do kiểu phương Tây, trong đó có ảnh hưởng không nhỏ của phong trào Giải phóng tình dục những năm 60 của thết kỷ XX.

Đó thực sự là một hiện tượng văn chương quốc tế (New York Time)

Góp phần đưa nước Pháp trở lại hàng ngũ những cường quốc văn chương trên thế giới (The New Yorker)

Giới thiệu của Hương

Nếu ai đã từng đọc Cô đơn trên mạng rồi thì thấy cả Hạt cơ bảnCô đơn trên mạng đều nói nhiều đến tình dục, khoa học tình dục, các nhân vật (nhất là nhân vật chính) hầu như đều rất ham mê tình dục. Tác giả không chỉ nói đến khoa học đó ở mức là chuyện hoà hợp giữa người đàn ông và đàn bà, mà theo tớ, tớ gọi là “giao phối”. Tức là trong tiểu thuyết đó, con người trở về với đúng cái nghĩa “con” của nó, như một loài động vật với những ham muốn hiện sinh. Nhiều người đọc cho rằng, những cuốn sách như thế thật là “cuồng loạn”, “ghê tởm”, “thác loạn”,...

Tuy nhiên, nếu bạn chỉ đọc và chỉ hiểu được có như thế thì tức là bạn chưa phải là một độc giả có trách nhiệm. Bởi lẽ bạn đã nóng vội chỉ xét nội dung dựa trên hình thức chuyển tải.

Tác giả không cần phải nói về cái đó, vì sẽ có nhiều băng video còn “thật” hơn nhiều chứ! Vậy nên khi đọc, đừng có mà gào lên là “kinh thế” nhé, mình cũng là con người cả thôi (mặc dù nhiều người sẽ có những xáo trộn tâm lý nhất định).

Chúc mọi người đọc, hiểu phần nào, và đủ lý trí để không bị ám ảnh!

The Unique

Gửi Hà Nội năm 2006

“Mưa đá!”-tiếng cô bé hàng xóm reo lên vui thích, chỉ có trẻ con mới vui như thế. Từ chiều đã gió ấm ầm, thềm nhà phủ lớp bụi dầy cộp. Loáng cái 6 giờ chiều, mưa đã lộp độp trên mái nhà.

Khu tập thể được cấp cho cán bộ, giảng viên trong trường Đại Học ở tạm. Vốn tách ra từ kí túc xá của sinh viên được nên mọi thứ đều chung: tắm chung, rửa chung, vệ sinh chung, đi lại chung,...

14 căn phòng đều rộng 16m2, mỗi gia đình phải tự cân đối không gian với sinh hoạt và lượng người ở. Mái nhà lợp prô-xi-măng, trần cót ép nên mùa hè nóng bỏng người. Các nhà đều “xử ký tình huống” bằng cách đẩy trần sát mái, làm trần xốp 30cm, nghiến răng mua cả máy lạnh về “bật những khi thật sự cần thiết”.

Nhà nào cũng có một chiếc thùng tôn trên thềm trước cửa để nấu ăn, tất cả xoong nồi, bát đĩa đều ở trong ấy, khi nào nấu ăn thì mở nắp rồi dựng chiếc que chống lên, nấu xong lại đậy xuống. Có nhà để thùng ngoài sân, lấy thềm kê giường vừa để ăn uống, vừa để học hành, ngủ nghỉ. Ngoài bếp ga là mấy chiếc bếp than tổ ong “cho đỡ tốn ga”, nổi lửa ngay bên cạnh kho của công ty xe buýt. Cũng không hiểu vì lý do gì mà công ty xe buýt đó lại để kho nhiên liệu ngay sát khu dân cư như thế, chỉ biết khi nổi lửa bếp than là các giảng viên, cán bộ Đại Học lại “bị” các cô, chú công nhân “mắng”: “muốn chết hay sao mà đun lửa ở đây?”

Sân rộng nên nhà nào cũng tranh thủ kê cái giá gỗ xin được ở đâu về để chạn bát hoặc là mấy thứ chổi cùn rế rách “nhỡ có khi dùng đến”. Cũng có nhà vì đông người nên cơi đằng sau rộng thêm được gần 2m, cách tường khu vệ sinh “nặng” độ 1m, vừa cơi vừa sợ bị “người ta” báo cáo lên trên. Ở khoảng sân trước thềm, nhiều nhà mua cột kèo về làm thêm cái hiên để xe cộ tránh mưa nắng.

Mỗi nhà đều tận dụng tối đa khoảng sân để kê thùng tích trữ đề phòng khi mất nước, thành ra cứ dùng nước xách về, để nước trong thùng ôi hết cả, lại đổ đi, lọc lại, đổ đẩy, lại tích trữ.

Nước được xách từ khu bể chứa về. Khu này có 3 nhà vệ sinh “nhẹ”, 1 phòng rộng hơn có dòng chữ viết phấn: “Phòng này dành cho chị em tắm, đề nghị mọi người không đi vệ sinh”. Có 2 bể nước: 1 dội vệ sinh, 1 tắm rửa, mỗi năm nạo bể 2 lần nhưng cũng có nhà “trốn” việc hàng năm. Có 3 vòi nước bơm mỗi chiều nên cứ từ 4 giờ là cả khu cùng đem xô chậu ra hứng nước ăn, rất “đông vui”. Ai vào cũng chê khu này vệ sinh bẩn, nhưng chỉ có “người ở trong chăn” mới hiểu rằng không phải ai cũng biết giữ vệ sinh. Lũ trẻ con thì coi như là chưa biết gì, chứ người lớn thì... Thêm đó, nằm ngay cạnh cái cống nước thải nên có ai nói là mất vệ sinh thì cũng... đúng.

Còn khu “nặng” ở phía sau lưng các nhà, cứ 2 nhà chung 1 phòng, chiều nào cũng xách nước đổ vào thùng mà dội vì không có nước dẫn đến.

Thế rồi một ngày mưa đến,...

Người ta băn khoăn: “kêu thế chắc hạt mưa to lắm?” Hoá ra là mưa đá, mấy tuần rồi không có mưa, hôm nay ông trời cho xả láng đây. Lúc đầu hạt mưa to bằng ngón út, rồi đỉnh điểm to bằng ngón chân cái. Ai cũng chạy ra hào hứng nhặt mấy viên, sau thì ai cũng vào nhà, đóng cửa. Giời này mà nấu cơm ở ngoài mới “biết mặt” nhau đây! Bếp ga đôi, 1 đang xào rau, 1 đang rán cá. Tôi tắt bếp, vào nhà chờ mưa ngớt ngớt. Bố mẹ kêu đói, tôi mở cửa ra nấu tiếp, bật chiếc ô to đùng lên che, nước dưới chân lạnh buốt. Cảnh tượng ngoài sân giờ thật hãi hùng: cây treo đồ đổ ập xuống, khăn mặt, khăn tắm nhúng đầy trong nước bẩn của cả khu; dập dềnh trên mặt nước là bao nhiêu mảnh lá cây bị đá bắt nát vụn; xô, chậu, dép, guốc trôi lềnh bềnh. Thỉnh thoảng thằng bé nhà bên lại kêu lên: “Chai rửa bát nhà chị Út à? Thế xà phòng nhà ai kia? Ôi, bánh xà phòng nhà mình mất cái đựng rồi!” Nói rồi nó lội chân xuống thứ nước lạnh ngắt, gạt rác với lá cây để đẩy chiếc chậu cho nhà hàng xóm. Cô hàng xóm cười: “Nhà mình còn may, nhà bác Vân bên kia bay cả cái mái hiên, vỡ hết chậu cây, giàn gấc “trụi thùi lụi”!”

Ăn cơm xong, đã 7 giờ, mưa 1 tiếng rồi mà không ngớt. Tôi ra ngoài, cũng lội nước lôi đồ nhà mình về. Mẹ chạy ra lấy cái chậu, khăn, gáo vào trong (chỗ cái gian nhỏ cơi ra phía sau làm chỗ để máy tính). Mẹ đang tát nước! Roạt! Roạt! Bố thì mang cái thùng to vào đựng nước đem đổ. 2 mẹ con hì hụi mãi tát không xong. Mẹ đang ốm dở. Rồi mẹ buông gáo: “Thôi, tốt nhất là đem đồ dưới gầm giường lên cao để tạm, chứ đêm vẫn mưa thì ở đây mà tát mãi à?” Nói rồi cả 3 người lại lục đục moi từ gầm giường ra: nào cốc, chén, nồi, bếp ga du lịch...

Bố gọi tôi ra sau tường nhà. Con soi đèn, bố... đục và khơi nước. Mất 15 phút chẳng ăn thua nên lại vào nhà, tôi lấy nước nóng và khăn mới cho bố lau người, bố cũng hay ốm vặt. Tôi lại vào tát nước. Mươi phút sau thì sinh viên của mẹ kéo đến. Hôm nay là 20 tháng 11. Mẹ kêu: “Mưa to, ngập thế này đến làm gì hả giời? Khổ thân! Út lấy cho mẹ cái máy sấy cho anh sấy tóc”-“Ở nhà trọ cũng dột, dọn mãi không xong, bọn em bảo nhau: thôi vứt đấy, đi tết thầy cô đã!” Cô trò nói chuyện rôm rả. Ngồi bên cái máy tính phủ 3 lần áo mưa, dưới chân ghế lõng bõng, nước mắt tôi trào ra, tôi không dám khóc to. Lúc nãy, khi mẹ đang tát nước, tôi thấy mẹ cũng khóc. Giờ nghe tiếng mẹ cười nói vui vẻ với học trò mới thấy mình chịu đựng thật kém. 10 giờ tối chỉ lất phất mưa. Khách cũng về hết. Mẹ con lại loay hoay xếp đồ, quét qua cái sân, vun lá. Cả khu than thở xem ai bị thiệt hại nhiều hơn. Lâu rồi không bị một trận nhừ tử như thế. Mẹ bảo: “mai mà thế này thì chắc toi”.

May sao đêm không mưa. Bình thường 11 giờ tôi vẫn thức, còn đêm nay thì chẳng buồn nghĩ thêm gì, đặt lưng là ngủ say.

Sáng ra, cả nhà đi làm hết. Việc đầu tiên của tôi là đem hết quần áo, khăn khố ra giặt lại, giũ cả gần chục nước mà vẫn thấy đục. Rồi đánh rửa xô chậu, hứng nước, ấm chén, bát đũa, đun nước, lau nhà, dọn hậu quả xong cũng mất hơn 3 tiếng. Đến 10 giờ trưa mới nhớ ra từ sáng mình chưa rửa mặt. Lại nấu cơm, chiều đi học.

Tối đến, tôi nghe thời sự thấy mưa đá nhiều nơi tàn phá ghê lắm, 8 giờ mới lột 3 tấm áo mưa, bật máy tính viết mấy dòng than thở. Ước gì từ này đến cuối tuần đừng có mưa, không thì...

Thủ đô Hà Nội. Năm nay là năm 2006.

NHQH

The Unique

Vào 1 ngày nắng tháng 12...

Người thợ xây mang cho tôi 1 chú nhóc. Chú ta có bộ lôngmàu vâng hổ, có vằn kẻ, khuôn mặt rất có “hồn” đáng yêu. Thực ra chỉ là giải quyết vấn đề chuột bọ. Tôi là người đón tay, mẹ đùa: “Út là đón tay thì nó chạy nhảy suốt ngày thôi”.

Tôi chạy đi kiếm cho nó cái chậu để ị, bẻ cành cây đo đuôi cho nó ị có “phép tắc”.

Ngay ngày đầu tiên, chú nhóc đã biết đường chạy vào cái chậu đựng xỉ than để “giải quyết”. Khỏi phải nói, cả nhà đều ngạc nhiên và mừng kinh khủng. ai mà chả sợ mấy con mèo rây bẩn nhà.

Mình gọi nó là “thằng con yêu của mẹ”, đặt tên là Dương-Tùng Dương. Thằng bé thật đáng yêu, lúc nào cũng gừ gừ rồi tót lên chân mọi ng trong nhà. Cứ chỗ nào chật chật, ấm ấm là chui vào. Tối nào nó cũng ngủ trong chăn của mình. Hôm nào ko cho nó nằm cùng thì nó nghoeo nghoeo lạc cả giọng.

Mèo là loài ăn ít, “ăn như mèo” mà, nên phải cho ăn nhiều bữa. Cứ hôm nào cho ăn muộn là cu cậu nhắng lên, kêu váng nhà, chạy quanh rồi gào thét đến là khiếp. Mình cho nó ăn cơm cá, thịt, uống sữa, ăn bỏng ngô, ngô cay, bim bim, ăn tuốt tuột. Lại còn sợ nó ăn mãi 1 món thì nó ngấy nữa chứ.

Bố bày ra cái cách cho nó chui vào trong áo khoác. Cứ để nó ở gần, mở khoá áo ra là nó chui vào, nằm gọn lỏn trong đó, quay quay chọn thế ngồi rồi ngước mắt ngỏng lên rất yêu, kêu meo meo vài tiếng. Mình đóng khoá áo lại là nó nằm im, mình chạy khắp nhà mà nó cũng chẳng kêu, vì ấm mà.

Rồi nó lớn dần.

Hôm 18 tháng 1 là sinh nhật mình. Bạn bè đến rất vui, mình đem nó khoe với bạn: “Con giai tớ đây, chào các chú các bác đi con!”. Rồi mình đi chơi với bạn. 11 rưỡi mới về. Mình bóc quà, nhận điện thoại và nói chuyện khá lâu.

12 rưỡi, mình đi ngủ. Chắc nó lại ngủ với ông và bà rồi.

Sáng đậy, nghe láng máng ai nói có con mào chết trong bể nước, mình vùng dậy, chạy theo mẹ.

Thật chẳng còn biết nói gì, mình sững người ko nói được. Hai mẹ con hì hụi vớt nó lên. Toàn thân nó cứng đờ, có lẽ là đêm qua nhảy hụt, rơi vào nước lạnh, mà nó thì còn bé. Mình đỡ lấy nó, đôi mắt thường ngày mở to mà lúc này vẫn mở, nhưng chỉ hấp háy như sợ nước vào mắt. Đôi mắt lim dim mình chỉ thường thấy khi nó được ở gần người, được vuốt ve mà thôi...

Giờ thì nó đã đi rồi. Với mình, đó là một mất mát thật lớn. Mình đã coi nó như 1 thứ không thể thiếu mỗi ngày. Mình im lặng dọn bát, chậu, dọn hết. Hai mẹ con chôn nó sau nhà.

Nó đã chết, toàn thân lạnh cóng và đôi mắt lim lim sợ nước. Chưa bao giờ mình thấy có cảm giác yêu thương như thế với 1 con vật. Ngồi bên cạnh Bích, mình chỉ kịp nói vài câu rồi ào lên khóc. Nó chỉ là 1 con vật thôi, nhưng sao mình lại thấy buồn đến thế? Mình không phải là ng yếu đuối, cả sáng mình đã cố không khóc. Nhưng đến khi kể cho Bích nghe, mình đã không chịu nổi.

Nó giống như một đứa trẻ, cũng hay nũng nịu, thích được ôm ấp vuốt ve, thích được quan tâm, vỗ về. Nó cũng khó bảo như một đứa trẻ. Ở bên nó, mình có cảm giác được chăm sóc cho đứa trẻ, chia sẻ yêu thương.

Sáng nay, ánh mắt đó ám ảnh mình, đôi mắt lim dim không phải vì được vỗ về...

The Unique



(Ảnh là sư thầy Huyền Diệu-nhà sư Việt Nam đầu tiên ở Nepal, chủ tịch Việt Nam Phật quốc tự ở Lumbini, chủ tịch lên đoàn Phật giáo Quốc tế Lumbini-người có công lớn trên con đường tìm kiếm hoà bình ở Nepal)

Hoàng Hưng

Một người Việt Nam có công lớn
trong việc lập lại hoà bình ở Nepal


Đọc bản tin về hiệp ước hoà bình giữa phe du kích quân Maoist và chính phủ Nepal vừa ký kết, chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài10 năm, giết hại 13.000 người, và mở ra một thời đại mới cho đất nước nhỏ bé dưới chân dãy Himalaya, tôi bồi hồi nhớ lại cả quá trình kiên trì vận động hoà bình của Thầy Huyền Diệu, mà mình được theo dõi sát sao và đóng góp một phần nhỏ bé… từ xa.

Tháng 3 năm 2004, vợ chồng tôi ở trong chùa Việt Nam Phật Quốc Tự, ngôi chùa quốc tế đầu tiên do Thầy Huyền Diệu, nhà tu hành người Việt Nam sáng lập tại thánh địa Lumbini, nơi Đức Phật Thích Ca giáng trần. Trong hơn một tháng trời ở đó, tuy còn xa những nơi có chiến trận, chúng tôi cũng cảm nhận rõ ràng không khí chiến tranh. Đường điện thoại thường xuyên bị cắt đứt, những cuộc cấm vận thường xuyên khiến giao thông ngưng trệ. Hôm rời Lumbini trở về Việt Nam, chúng tôi phải đi xe lôi khoảng 25 km ra sân bay địa phương, rồi từ đó đáp máy bay lên thủ đô Kathmandu, để từ Kathmandu bay về Thái Lan. Trên đường đi, chúng tôi gặp những chiếc xe tải bị đốt cháy đen vì đã dám vi phạm lệnh cấm vận của phe du kích.
Thực ra từ hơn 10 năm trước, sau cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài trong thời gian đầu của chế độ quân chủ lập hiến Nepal, đặc biệt là việc nhóm Maoist ly khai khỏi Đảng Cộng sản Nepal và phát động chiến tranh du kích nhằm lật đổ vương quyền, Thầy Huyền Diệu đã cảnh báo với Nhà Vua và các chính đảng về nguy cơ một cuộc nội chiến kéo dài, cần phải chặn đứng ngay bằng thương thuyết hoà giải, nhưng không mấy ai tin lời Thầy. Phần lớn chính khách coi nhóm Maoist chỉ là lũ phiến quân nhỏ bé có thể dễ dàng dẹp tan bằng vũ lực. Thực tế đã chứng minh lời Thầy. Quân du kích đã ngày càng mạnh mẽ, kiểm soát nhiều vùng rừng núi, bao vây và cắt liên lạc giữa các thành phố, tấn công quân đội và các đồn cảnh sát. Một số cuộc đàm phán chỉ đem lại ngưng bắn tạm thời ngắn hạn và sau mỗi lần thì qui mô và tính chất khốc liệt của cuộc chiến càng tăng lên.

Chính trong những ngày căng thẳng ấy, Thầy Huyền Diệu đã trao đổi với tôi mà Thầy coi như một người bạn và một số đệ tử của Thầy, về kế hoạch vận động hoà bình cho Nepal. Là người được cả chính giới lẫn dân chúng Nepal tôn kính vì công lao mở đầu việc khôi phục thánh địa Lumbini (từ chỗ hoang vu điêu tàn, nay Lumbini đã thành di sản văn hoá thế giới với một hệ thống chùa và tu viện quốc tế hoành tráng - Thầy giữ vai trò Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo quốc tế ở đó), vì những nghĩa cử đối với dân trong vùng (Thầy đã xây dựng cây cầu Tình thương Việt Nam qua dòng sông oan nghiệt từng cướp đi nhiều mạng sống trong mùa mưa lũ), vì công cuộc bảo vệ đàn chim hạc và môi sinh Lumbini… Thầy có lòng tin ở "sự nhiệm màu" của thiện tâm, và sức mạnh tâm linh của thánh địa Lumbini, của tinh thần đại từ đại bi mà Đức Thích Ca rao truyền.
Ngày 12 tháng 6 năm 2004, nhân ngày lễ Phật Đản, Thầy gửi lá thư ngỏ cho Nhà Vua, Thủ tướng và tất cả các đảng phái chính trị Nepal, mời các bên tới Việt Nam Phật Quốc Tự ở Lumbini để gặp gỡ bàn về một giải pháp cho hoà bình. Thầy đề nghị các vị chính khách tới sống một tuần trong chùa, cầu nguyện và thiền định để tâm lắng dịu trước khi bàn cãi. Bức thư được công bố trong buổi họp báo ở thủ đô Kathmandu, tại Câu lạc bộ Nhà báo, với sự có mặt của đại diện nhiều đảng phái, đã như hồi chuông đầu tiên thức tỉnh lòng hoà hiếu giữa ngọn lửa căm thù và đối kháng. Báo chí Kathmadu đưa tin về sự kiện này với hàng tít lớn: "Nhà sư Việt Nam kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình Nepal", "Giải pháp hoà bình của nhà sư: thiền định ở Lumbini"... Kết quả là một số chính đảng đã bí mật sắp xếp cho cuộc gặp gỡ ở Lumbini. Tiếc thay, cuộc gặp đã không diễn ra do thiếu sự tế nhị và kín đáo cần thiết.


Cuộc nội chiến tiếp tục leo thang và rộ lên vào cuối năm 2004. Mọi người chờ đợi có cuộc ngưng bắn vào dịp lễ Dasain (lễ mừng Năm Mới của Nepal, vào khoảng tháng 2 Tây lịch) nhưng cho đến lúc ấy vẫn không có dấu hiệu gì khả quan. Các bạn người Nepal của Thầy, trong đó có một số lãnh tụ chính đảng, yêu cầu Thầy lên tiếng. Họ hứa sẽ tổ chức một cuộc họp ở Kathmandu để Thầy dưa ra lời kêu gọi ngưng bắn.
Cuộc họp ở Trung tâm Văn hoá Kathmandu diễn ra rất thuận lợi. Những người tham dự, bao gồm đại diện các chính đảng và chính phủ, đặc sứ của nhà vua, cùng ngoại giao đoàn, nhiệt liệt hoan nghêng sáng kiến của Thầy Huyền Diệu. Tuy không ra mặt, nhưng người đại diện phe Maoist cũng bí mật tham dự và lên cảm ơn Thầy sau buổi họp, lẫn trong số những người khác. Đây là một dấu hiệu rất tích cực khiến Thầy cảm thấy nhiều hy vọng.
Đêm hôm ấy, một cú phôn đánh thức Thầy Huyền Diệu trong khách sạn. Ông M. Pradhan, một vị trong ban tổ chức cuộc họp vui sướng báo tin phe Maoist vừa thông báo đơn phương ngưng bắn 9 ngày nhân dịp Năm Mới. Thầy vui mừng thức suốt đêm viết một bức thư gửi Nhà Vua Gyanendra và Thủ tướng Surya Bahadur Thapa, kêu gọi họ đáp ứng bằng một lệnh ngưng bắn tương tự. Tuy không tin tưởng vào thiện chí của phe Maoist, Chính phủ cuối cùng cũng đồng ý với Thầy sẽ không đơn phương nổ súng trong dịp 9 ngày lễ Năm Mới mà chỉ bắn trả khi bị tấn công.
Sau dịp lễ, một số người Nepal tìm đến cảm ơn Thầy vì sau gần mười năm loạn lạc, đây là lần đầu tiên họ được về ăn Tết ở quê nhà trong vùng Maoist kiểm soát.

Cùng lúc ấy, một hội nghị quốc tế lớn được dự kiến diễn ra từ ngày 30 tháng 11 đến 3 tháng 12 năm 2004 tại Lumbini dưới sự bảo trợ của chính phủ Nepal, Quĩ Ủy thác Phát triển Lumbini và nhiều tổ chức quốc tế khác. Mục tiêu của hội nghị, với sự tham dự của các lãnh tụ chính trị Nepal và nhiều đoán đại biểu Phật giáo các nước, là nhằm củng cố nền ngoại giao của Nepal, tìm kiếm sự trợ giúp mạnh mẽ hơn của cộng đồng thế giới cho đất nước nhỏ bé và nghèo nàn này. Rất nhiều nỗ lực đã được bỏ ra để chuẩn bị hội nghị, nhưng điều tiên quyết là hội nghị phải tránh được sự phá hoại của phe Maoist. Phe này được mời tham dự nhưng đã từ chối. Hơn thế nữa, ba ngày trước khi hội nghị khai mạc, quân du kích đã cho nổ vài trái bom tại một ngôi làng gần Lumbini; tiếp đến một lệnh tổng đình công, bãi thị và cấm vận được các lãnh đạo Maoist địa phương ban bố.
Ngày hôm sau, tất cả các đường phố vắng hoe, chỉ có những chiếc xe của chính phủ và ngoại giao đoàn với sự hộ tống rầm rộ của quân đội, cảnh sát, lăn bánh trên đường. Trong dân chúng lan truyền tin đồn sẽ có hàng trăm trái bom sẵn sàng nổ để phá tan hội nghị.
Các nhà tổ chức hội nghị và các chính khách một lần nữa thỉnh cầu Thầy Huyền Diệu đích thân gặp quân du kích để yêu cầu họ ngưng chiến trong thời gian diễn ra hội nghị, ít ra là tại Quận Rupandehi, quận sở tại của thánh địa Lumbini.
Sau khi suy nghĩ về hiệu quả có thể có của lời mình kêu gọi, Thầy Huyền Diệu nhận lời. Nhưng Thầy không biết làm sao tiếp xúc với các lãnh tụu phe Maoist vốn không ra mặt. Thầy liền vào chánh điện tụng một khoá kinh và thiền định. Mười phút sau, Thầy quyết định lập tức bay lên thủ đô Kathmandu để nhờ báo giới chuyển thông điệp của mình tới phe Maoist. Thầy tin rằng đó là con đường ngắn nhất để giải quyết vấn đề.
Trong cuộc họp báo kéo dài một giờ rưỡi, Thầy nói rõ mình không phải là đại diện của chính quyền, mà cất tiếng nói của riêng mình, vì danh dự của đất nươc Nepal và tương lai của dân tộc này. Thầy long trọng nhờ báo chí gửi tới lời yêu cầu ngưng các vụ nổ bom và đình công trong vùng Rupandehi.
Và như một phép lạ, chỉ 4 giờ sau cuộc họp báo, qua sóng FM radio và các hãng thông tấn, mọi người được biết các lãnh tụ Maoist đã bãi bỏ lệnh tổng đình công 3 ngày ở Rupandehi.

Cuối năm 2005, một cuộc đi bộ cầu nguyện cho hoà bình đã được Thầy Huyền Diệu, với tư cách Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo Quốc tế Lumbini, tổ chức, với sự tham dự của hàng trăm tu sĩ và Phật tử từ nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đoàn đi bộ xuất phát từ ngôi chùa lịch sử Namobudha gần Kahthmandu, nơi liên quan đến tiền kiếp của Phật Thích Ca, trong kiếp đó Ngài đã vì từ tâm mà tự nguyện làm mồi cho hổ mẹ nuôi bày hổ con sắp chết đói. Đi trên 300 km đường núi, qua nhiều thành phố, cuối cùng đoàn về Lumbini làm lễ khánh thành Việt Nam Phật Quốc Tự sau hơn 12 năm khổ công xây cất.

Suốt trong hai năm 2004, 2005, trong mọi khóa giảng dạy và gặp gỡ ở nhiều nơi trên thế giới, mọi lá thư trao đổi với bạn bè và đệ tử, Thầy đều nhắc nhở mọi người cầu nguyện cho hoà bình Nepal. Thầy nhiều lần gọi tôi sang để hỗ trợ Thầy trong việc tiếp tục vận động hoà bình cho xứ sở này.

Mùa xuân năm 2006, vợ chồng tôi mới thu xếp được để sang lại Ấn Độ. Lúc này chiến sự ở Nepal đang đến hồi cao trào nhất, đường giao thông đến Kathmandu và Lumbini đều bị cắt đứt, sự bao vây của quân du kích kéo dài vô thời hạn. Thầy Huyền Diệu quyết tâm ra một cuốn sách về vấn đề hoà bình Nepal để công bố trong dịp lễ Phật Đản. Sau vài buổi bàn bạc đề cương cuốn sách với tôi tại Việt Nam Phật Quốc Tự Bồ Đề Đạo Tràng (ngôi chùa Thầy đã sáng lập từ trước ở nơi Phật thành đạo, thuộc Ấn Độ), Thầy vội vã về Lumbini để đối phó với tình hình chiến sự có nguy cơ lan đến Thánh địa. Từ đó, chúng tôi chỉ toàn liên lạc qua điện thoại và email. Tôi được biết Thầy đã trải qua một thời kỳ gian khó nhất ở Lumbini trong tình trạng chợ búa không họp, xe không chạy, điện mất. Nhưng Thầy không chút nản lòng, quyết tâm ra được cuốn sách để thúc đẩy hoà bình trên xứ sở quê hương của Đức Phật mà Thầy gắn bó từ hơn mười năm nay.
Và cũng như mọi việc Thầy đã làm mà tôi biết, niềm tin vững vàng, tinh thần lạc quan và quyết tâm không thể lay chuyển của Thầy bao giờ cũng đưa đến thành công. Giữa lúc các phe phái ở Nepal bắt đầu thăm dò một triển vọng hoà đàm, cuốn sách "Nepal, hoà bình trong tầm tay" long trọng ra mắt tại Kathmandu. In bằng hai thứ tiếng Anh-Nepal, cuốn sách mỏng có nội dung đầy thuyết phục. Sau khi minh định bản thân tuy là một người nước ngoài nhưng đã tự coi mình như người con của xứ sở Nepal, Thầy Huyền Diệu phân tích sâu sắc nguyên nhân xa gần của cuộc nội chiến, trong đó Thầy nhấn mạnh sự bất bình đẳng xã hội, tình trạng khốn khó của người dân vùng sâu vùng xa, tham vọng quyền lực và sự thiếu tin cậy lẫn nhau của các lực lượng chính trị; Thầy kêu gọi tất cả các bên đặt quyền lợi của đất nước và dân tộc lên trên quyền lợi của phe đảng, lấy tinh thần từ bi của Phật Tổ - người con vĩ đại của đất nước Nepal, làm chỗ dựa để ngồi lại với nhau tìm đường thoát khỏi cuộc chiến. Thầy còn đề xuất những bước đi cụ thể để đi đến hoà bình, trong đó Thầy nhấn mạnh cách xử sự trọng thị với phe du kích Maoist, để họ có chỗ đứng xứng đáng trong một chính quyền hoà hợp dân tộc. Cuối cùng, Thầy vạch ra tương lai một nước Nepal hậu chiến với một chiến lược phát triển bền vững và phù hợp, trong đó Thầy nhấn mạnh vai trò của văn hoá, tấm linh, công bằng xã hội. Và cũng như trong mọi cơ hội thuyết giảng với mọi đối tượng, Thầy nhắc đi nhắc lại "sự nhiệm màu" sẽ đến khi con người thực sự có thiện tâm.

Ai đã một lần đến Lumbini đều không thể không đi xem chim hạc múa. Và không thể quên hình ảnh những con chim hạc cao lớn quấn quýt bên Thầy Huyền Diệu. Bản thân tôi đã có lần chứng kiến đôi chim hạc nghe tiềng Thầy trong ngày hội Cầu Việt Nam tìm về ngỏng cổ nghe ngóng và biểu diễn một đường bay tuyệt đẹp trước mắt mấy trăm quan khách. Chim hạc là biểu tượng hoà bình yên vui. Tôi hình dung một ngày không xa, Việt Nam Phật Quốc Tự Lumbini mở hội đón hoà bình. Theo lời mời của Thầy Huyền Diệu, các phe phái vốn đối địch của Nepal, các phái đoàn quốc tế, đông đảo người hành hương và du khách đến tập họp ở đây xem hạc múa và thưởng thức những món ăn, những tiết mục văn nghệ đặc sắc của Việt Nam…