The Unique



Đăng Tên lửa

(view thêm blog nhà mình: http://360.yahoo.com/profile-sxmQd9o8bqcnXSvaUUVCjbBO.CK9VA--?cq=1)

Đăng xuất hiện trước mắt tôi thật lạ lùng, hơi kỳ dị nữa. Đăng bằng tuổi tôi nhưng tôi chẳng bao giờ kêu Đăng là bạn, mà là “em”. Đăng không chịu, cằn nhằn: “Hơn người ta bao nhiêu tuổi mà đòi làm chị?”. Tôi đanh đá: “Thì chị sinh tháng 1, mày sinh tháng 3 đấy!”

Đăng có cái vẻ gì đó khiến tôi không ưa. Thậm chí, tôi còn thấy Đăng… xấu bụng nữa! Cả ngày, nếu không có việc gì là Đăng cắm đầu vào di động nhắn tin cho người yêu ở Hà Nội, nghe ai đó bảo tin nhắn lãng mạn lắm, chứ không “mất dạy” (từ này chỉ mang ý nghĩa trêu đùa thôi nhé, nghĩa là “bậy”) như Đăng thường thể hiện. Chắc tôi chưa nghe thấy ai “rên rỉ” vì “SƯỚNG” (tưởng tượng) lại đầy “cảm xúc” và “gợi tả” như Đăng. Tôi bực: “Không còn gì nói nữa hay sao?”

Đăng ăn tham lắm, chạy hết mâm này sang mâm kia. Mọi người gọi Đăng là “thùng nước gạo”. Cái mặt già già trông như đồ tể nhưng giọng nói lại thanh thanh, đến là bực mình! Chuyện vui về Đăng, chắc mọi người kể mãi chẳng hết, tôi không kể nữa. Nào Tên lửa, Rocket, Đít mọt, “Trung tình”, Long đảo, 2 hòn đá song song, …

Đăng không nói nhiều, thậm chí khi cả lũ bị chuyện của Đăng làm cho “bò lăn bò càng”. Đăng rất có trách nhiệm, không bao giờ phàn nàn khi ai đó cần giúp đỡ, không bao giờ bỏ bễ khi tới lịch trực nhật. Đăng tắm rửa sớm và giặt đồ ngay sau đó. Đăng yêu trẻ con. Nhìn Đăng vui đùa với lũ trẻ, nụ cười hiền lành rất đỗi… Tôi vẫn nhớ nhiều tấm hình của Đăng. Môi cười đẹp và rất là… nam tính!

Người ta nói một câu đại ý là: Có trong gian nan người ta mới hiểu lòng nhau. Ừ, với tôi và Đăng thì đúng vậy.

Chỉ trong một buổi chiều, cái buổi chiều định mệnh ấy mà suy nghĩ của tôi về Đăng thay đổi hoàn toàn!

Tôi đã thấy Đăng bình tĩnh như thế nào, mạnh mẽ như thế nào khi tất cả chúng tôi đều bối rối. Tôi biết Đăng cũng chưa trải qua chuyện nào như thế, nhưng ở Đăng toát lên điều gì đó khiến tôi ngỡ ngàng và tin tưởng. Đăng ở bên chúng tôi, bảo vệ chúng tôi. Nhưng Đăng không làm gì liều lĩnh. Đăng biết rằng một người bạn ra đi đã là quá đủ cho chúng tôi rồi. Tôi đã nhoài người ra phía trước, Đăng quát: “Tát chị ấy đi!”. Tôi rất nhớ…

Tới bệnh viện, tôi đã cố bình tĩnh. Trang ngất. Và rồi tôi cũng chẳng bình tĩnh được, tôi òa khóc nức nở. Đầu tôi nóng bừng. Mọi người kêu cõng tôi về Hội chữ thập đỏ, kêu tôi sốt. Đăng dìu tôi. Tôi không chịu. Đăng cõng tôi, nhét tôi lên ô tô. Về tới đó, tôi ngồi phịch xuống sàn, lại khóc. Đăng ngồi cạnh tôi, vỗ về tôi và không nói gì hết. “Hãy để nước mắt rơi”, tôi hiểu vì sao Đăng không nói gì hết.

Tôi quẫy đạp, tôi đòi tới bệnh viện. Đăng quát tôi: “Chị đừng như thế nữa, chị là chị lớn cơ mà, chị phải bình tĩnh chứ!”. Tôi đáp trong giàn giụa nước mắt: “Không chị không lớn, chị bé lắm Đăng ơi!”. (Sau này tôi nghe nói Đăng buồn cười câu đó của tôi. Nhưng không phải tôi tự phát câu đó, mà bản thân tôi đang so sánh mình với Đăng, nên tôi nói vậy)

“Ừ, đấy, thì chi đi đi, đi như thế nào? Đi đi!”. Và tôi lại nức nở: “Chị xin lỗi Đăng, xin lỗi Đăng,…”. Đăng lấy khăn và nước cho tôi. Nếu lúc ấy Đăng mà giống tôi, chắc chẳng ra làm sao cả.

Rồi chúng tôi lao ra xe để tới bệnh viện. Mỗi khi tôi khóc, hầu như Đăng đều bên cạnh. Và tôi không hiểu vì sao anh An đồng ý quả quyết cho tôi đi chung xe đưa áo quan về quê. Tôi cũng không hiểu rõ vì sao Đăng lại theo xe đó với chúng tôi. Tôi nhớ mình là người đầu tiên nhảy lên xe, bám riết… Đăng vẫn bình tĩnh như thế, không phải thái độ lạnh lùng. Đó là sự bình tĩnh ấm áp và mạnh mẽ mà tôi chưa bao giờ thấy ở bất cứ người con trai nào khi họ mới ở tuổi 20.

Và khi về tới nơi, Đăng vẫn bên tôi, lo lắng cho tôi, cả khi chờ đợi Đội đi sau, cả khi tôi định ở một mình. Tôi nhớ cả làn gió từ chiếc mũ Đăng dùng để quạt cho tôi.

Đăng biết tôi cũng là người bình tĩnh, cực kỳ bình tĩnh. Nhưng tôi khóc rất nhiều. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy như mình khóc hết nước mắt. Lần đầu tiên trong đời tôi khóc thật lâu, khóc rấm rứt hơn tiếng đồng hồ. Nhưng khi cần bình tĩnh để làm gì đó, tôi vẫn có thể trở lại tinh thần ban đầu. Vì sao?

Hãy để nước mắt rơi

Tôi khóc không hẳn là vì sốc, càng không phải vì sợ hãi. Tôi khóc vì thương. Tình thương là cái không thể định lượng, và tôi cũng không khóc để đong đếm tình thương. Tôi khóc để biết mình đang tồn tại trong những phút giây đau đớn đầu tiên trong cuộc đời. Tôi khóc để nâng niu thực tại.

Đăng hiểu, Đăng không khuyên nhủ tôi điều gì hết. Đăng, chỉ đơn giản, nắm khẽ bàn tay trên vai tôi. Đó là hơi ấm, là tình cảm của người bạn biết sẻ chia.

Tôi không có cơ hội nói chuyện với Đăng nhiều, nhưng tôi thấy mình măy mắn hơn thế bởi tôi có Đăng bên cạnh khi tôi thực sự cần một người bạn, một người bạn đúng nghĩa.

Gửi ngàn lời chúc tới cô bé Ô Mai,

Em đã tìm được chàng trai xứng đáng!

NHQH

Labels: 4 comments | edit post
The Unique

Từ ngày 4 đến 29/6, 27 sinh viên lớp Báo mạng 24-Khoa PT-TH, Học viện Báo chí và Tuyên truyền bắt đầu đợt kiến tập nghiệp vụ tại 10 cơ quan Báo mạng tại Hà Nội. Phần lớn sinh viên kiến tập tại báo Vietnamnet và vnexpress. Số còn lại đến các cơ quan báo chí như VOVnews, Công an nhân dân, Lao động, VTV, VTC, ĐCS, Hoa học trò,...

Với VOVnews thì sao nhỉ?

HỌC CÁCH GIỚI THIỆU

Ngày 31/5, mình tới 80 Bà Triệu trình giấy giới thiệu.

9h sáng 4/6, mình tới VOVnews. Đầu tiên chị Hoa cho bọn mình tự giới thiệu bản thân: "Em là Quỳnh Hương, lớp..., trường..., rất mong các anh chị giúp đỡ..."

Rồi mỗi đứa được ngồi 1 máy, lên mạng và đọc cách viết bài của họ.

Ngồi đến tận 12 giờ trưa. Nắng chang chang vẫn "quàng" về nhà.

HỌC CÁCH SỬ DỤNG TÀI KHOẢN và VIẾT BÀI

Chiều 2 giờ có mặt. Anh Hải bên phòng kỹ thuật hướng dẫn cực kỳ cụ thể cách làm ảnh, cách up bài, nhập bài,..., họ cho mỗi đứa 1 account, dạy cách vào, nói những cái mình được và ko được làm. Rồi ví dụ cụ thể cho up bài và up ảnh. Khá rối! Nhưng biết được 6 trang giấy!

Ngày 5/6, lại lên. Ngồi máy, chị Hoa giao cho 1 đề tài. Tự mình xem mấy mục họ ít bài, ta search trên mạng, và ta lên kế hoạch viết.

Ngày 6/6, ta nộp cái tin đầu tiên, up theo kiểu anh Hải dặn. Ai dè anh Hải khác gọi ra, bảo là: "Cái này em phải gửi vào ổ Z, anh duyệt, em sửa, anh in gửi chú Tổng, chú cho 1 dấu tích đỏ là ok, lúc đó mới nhập bằng account." Rồi anh bảo: "time new 14 này. Tít bold. Sapô 2 dấu cộng, in nghiêng. Mở đầu tin có (VOV)_, ko căn chỉnh trái fải thò thụt gì hết. Tên mình in đầm căn fải dưới cùng. Ko nộp ảnh vội".

Ok. Sửa. Anh Hải ok. Chú Tổng ok. Up bài. Up lần này fải là arial 10 cơ. Ảnh thì chú ý nguyên cỡ hay ko, có mô tả hay ko, tên ng viết ghi ở phần nguồn,... Cuối bài cho 1 cái .\. biểu thị kết thúc nữa.

HỌC CUNG CÁCH LÃNH ĐẠO

Anh Hải kỹ thuật nói: "Em chỉ được viết và up bài của MỘT MÌNH EM. Càng những người quan trọng hơn thì sẽ có quyền đọc và sửa bài người khác. Trách nhiệm trước thông tin được kiểm soát bằng máy chủ ở FPT, mọi hành động đều được ghi lại, đảm bảo ko gian lận. Nhưng lãnh đạo không ai làm thế, vì nếu có sai sót thì họ là người đầu tiên chịu thiệt".

CHỊ HOA: là một người kỳ lạ, một lãnh đạo đầy tố chất! Mình học ở chị sự nghiêm túc cực kỳ trong khi làm việc, sự khách quan cực kỳ với từng bài viết, luôn giữ một khoảng cách nhất định với cấp dưới, nhưng lại chỉ bảo nhiệt tình. Nhiều khi thấy chị bận rộn, ko dám làm fiền. Đến khi nói: "Chị ơi, em hỏi..." thì chị gọi luôn vào fòng họp. Lúc này hoàn toàn là một người chị tận tình, thoải mái và nhẹ nhàng. Mình không có cảm giác bị áp đặt tư tưởng, hơn nữa còn được gợi ý đề tài.

Mình lại hỏi cả vấn đề xin đăng ký làm tin trước, tránh "trùng" với các anh chị khác. Thế là lúc sau, chị hỏi luôn bên Văn hóa, có ai làm chưa? Ok, em làm đi! Xong!

Ôi, nói chung, nếu có đi thực tập, khéo mình lại đi VOV mất. Thời gian này nhiều người đi vắng nên thường xuyên có máy trống cho cả 2 đứa, sướng ko tả, mỗi tội đi hơi xa, trời nắng thôi.

Nào, mọi người comment báo cáo tình hình nào!

The Unique

SỤP ĐỔ- đó là tất cả những gì mình đang nghĩ trong đầu lúc này. Tại sao? Tại sao người ta lại có quá nhiều ràng buộc? Những mối quan hệ, gia đình, tình bạn, tình yêu, công việc, cả một cái nhìn lướt qua nhau trên phố ồn ào,...

Đôi khi chẳng biết mình đang cố gắng để làm gì, nỗ lực cho ai, phấn đấu vì điều gì... Tất cả giờ đây như món cháo đặc quánh, chao ôi, món chiken soup đã chẳng còn là cái mà mình quan tâm từ lâu lắm rồi.

Chào nhé tuổi thơ, ta hãy nhìn vào sự thật để biết mình đang tồn tại trong thế giới thực của bao nhiêu tỉ con người. Thế giới này không phải của riêng ta, cũng như miếng bánh chia phần cho mọi người.

Hôm qua, tuổi thơ cho ta tự do, vô lo và hồn nhiên cây cỏ. Vậy thì hôm nay có gì lạ khi ta ước ao được như ngày thơ bé?

Ta đã trưởng thành rồi. Ta phải quyết định cuộc đời của ta. Ta có trách nhiệm với cuộc sống của ta. Vậy thì cái gì, ở đâu xa xôi để ta vươn tới? Sao trước mắt mọi điều đều tăm tối, đều không định hướng? Làm gì khi trước mắt chỉ là khoảng không dày đặc, u tối, hũ nút, chìm đắm?

Ta chìm đắm trong ảo tưởng ngây dại về một tương tai của chính ta.

Ta đắm chím trong ảo tưởng về tình yêu của ta.

Ta đắm chìm trong ảo tưởng về lòng kiêu hãnh.

Ta vẫn chưa bị ai quật ngã để tự nhìn nhận mình.

Ngay lúc gõ những dòng này, nước mắt ta tuôn chảy ướt bàn phím. Chat với chị gái mà cảm thấy chẳng có ai hiểu mình.

Có những kẻ cần đến ta, có những kẻ lợi dụng ta, có những kẻ mong ta giúp đỡ, có những kẻ chờ đợi sự ban phát của ta, có những kẻ ngây ngô, có những kẻ ảo tưởng, có những kẻ kiêu ngạo, có những kẻ thật thà,... Quanh ta đấy!

Ta thật giàu có, phải không nào?

Labels: 4 comments | edit post
The Unique



Khoang Xanh mùa này cạn nước, nhưng cũng vui vì có bạn bè. Lần đi này phát hiện ra mấy cái tâm đắc.

Bình thường thì ít thôi, nhưng hôm đó thấy Kiên rất là người lớn, biết nghĩ, vui vẻ nhưng không trẻ con. Tự dưng thấy mình thật ngố khi 2 đứa cứ loay hoay chụp ảnh với "manơcanh" Kiên, cái ánh mắt lão dành cho 2 đứa đúng là kiểu "xem 2 con dở kìa!". Thế mà về lại nheo nhéo đòi gửi ảnh...

Đi rồi mới dám khẳng định chắc chắn rằng Dũng là người rất biết lo toan và quan tâm đến tất cả "Chỉ biết quên mình cho hết thảy" (óe!). Đi đường cứ chờ xe này xe kia, xem chúng nó đi đúng ra làm sao, có đủ không, có lạc không, "sao bà Hương bà Bích mua lắm thứ thế!", "Alô, Kiên ơi ông đi cẩn thận, nhiều công an lắm", rồi lại chạy tà tà cho bọn ko mũ BHiểm đi qua... Đến khi về trường tưởng chúng nó ở đẩu ở đâu, hóa ra về hết từ bao giờ. Thế là bạn Ngọc sướng rồi, nhất Ngọc!

Đi rồi mới biết Nam lùc siêu ghê! Xời, nhìn bạn Thảo, ai bảo là gái Mạng 24? Gái Mạng 24 chả có ai trông nữ tình ngời ngời như thế. Công nhận con giai lớp mình ranh ma, toàn vơ vét thiên hạ, để 1 luc con gái "chẳng ra gái" ngồi đực mặt như ngỗng ị.

Đi rồi mới biết là bạn Thùy rất là đáng yêu, và bạn Hoàng thì rất may mắn. Vì thế, ông Hoàng nên dành thời gian và tâm sức mà giữ. Nói chung, theo quan điểm cá nhân là bạn Thùy rất giản dị, hòa đồng.

Đi rồi mới biết Kiên bắn thuốc lào như ông cụ!

The Unique



Thật là chẳng làm sao... Ngày 27, "chớ đi ngày 7". Sáng mưa to, tưởng là chuyến đi bị đì lây...

Và rồi thì lẽ ra đi 6h, chờ hết mưa, Huệ sang nhà = bus vì xe nó kẹt phanh-->xui toàn phần!, thế nên 6h ngược (tức 9h) mới đi.

Và rồi cũng lên đường, "đi đường mói biết gian nan. Kinh hoàng, đường gì mà đường như là có ai đổ cháo ra ý. Giời! Nhão nhoét, sèn sệt, lỏng toẹt, sánh đỏ. Đi cứ phải canh chừng cái ô tô đằng trước, sợ nó bắn bùn vào người thì toi quần áo.

Và rồi thì phanh với lại về số nhiều nên mỏi chân, thành ra chốc chốc lại "xòe" 2 cẳng trên xe máy, khua loạn xị như dở người.

Đi đến Vĩnh Phúc rồi thì hỏi đường. Đúng là Huệ, dân VP mà cóc biết đường có chán không cơ chứ? Nhưng mà đi riết rồi cũng đến, biển chỉ đường to vật vã lã chã. Trông như 4 con bụi đời! Lếch thếch, nhếch nhác (thế mà còn dám mò lên Thiền Viện, báng bổ).

Và rồi thì đi bộ đến đoạn chân núi, nghịch nước linh tinh, rồi... quay về, vì trên ý cao lắm, mà đi vào thác bạc thì 5000/người, mà lại nghe bảo nó chả khác gì thác 7 tầng ở Định Hóa ATK, mà cái thác ở Định Hóa thì ta đã tắm mát ùm ùm cả 7 tầng "trong lành, mát lạnh, trong veo, uống vèo" rồi. Thế nên ta cũng chẳng thèm vào. VỀ!!!

Điều chán nhất ở chuyến đi là cảm giác "luôn thấy mình bị lừa đảo". Thật ko thoải mái tí nào. Ở trên đất nước mình, với những con người cùng dân tộc, thế mà phải cảnh giác nhau cực độ, có chán không? Rồi thì những cảnh "chiếu bạc" giả vờ lừa người, những trò chơi rủi nhiều may ít, mánh lới, chặt chém... Một cảm giác không an toàn 100%.

3h lên Thiền viện Trúc Lâm. Mình đã đi Ba Vì rồi, leo xe máy lên dốc quanh co như dựng đứng, phải có gương cầu, mình cũng không lạ. Nhưng cảm giác cầm lái thì là lần đầu. Rất xì tin! Bích ko dám kêu vì sợ mình mất bình tĩnh. Khoảng 6, 7 cái quanh co như thế, chưa kịp phấn khích (ko cần thuốc lắc mới Tài Dậu chứ) thì đã đến nơi.

Một khung cảnh bao la, bát ngát lộng gió ùa trong đôi mắt. Sảnh đường rộng, trần cao với nhừng bức tường trang trí bằng tranh về chuyện đời Thích Ca. Có 2 ban thờ, rất nhẹ nhàng và không mịt mù hương khói. Ngồi xếp gối trên tấm thảm nỉ mà ghi, hít hà cái hơi mát của núi và của không gian chay tịnh, dõi mắt theo các Thầy trong tấm áo vàng khoan thai đi lại. Thật lòng đã có lúc nghĩ "sau này đi tu". Thiền viện có không gian rộng, quy mô với cả khu nhà ở cho các sư, đủ máy tính Laptop, máy in, phô tô, phòng học, tiếp khách,... rất gọn gàng. Nghe nói, việc xây dựng biết tính toán nên chi phí mất có 1 nửa. Nói chung, đó là một không gian cho mình cảm giác được gột mình thanh sạch.

Rồi thì cũng về. Thiền viện mở lúc 7h, đóng lúc 16h30. Thế mà trên đường về vẫn thấy có mấy đoàn xe từ miền Nam rì rì lên dốc. Có lẽ họ ở lại trên đó. Lại văng vẳng bên tai tiếng Thầy rất ấm: "Người đời có 5 ham muốn: sức khỏe, hạnh phúc, giàu sang, được người kính trọng, trí tuệ hơn người"...

Về nhà Huệ, cảm giác nhẹ nhõm. Đúng là đi đâu, Việt Nam cũng hiện lên thật gần gũi với đồng xanh, những con đường nhựa nhỏ cong, hai bên là bạch đàn, kênh rạch với những thứ rau cỏ...

Lúa đang xuân, màu xanh mát mắt quá!

Labels: , , 0 comments | edit post
The Unique



MẠNG 24=27 CÁI TÔI RẠNG RỠ

Lớp mình có 27 người, 8 nam và 19 nữ. Như thế là đều, đẹp đấy. Tớ vẫn tự hào vì mỗi lần khoe về lớp mình, tớ thấy đám bạn cùng trường ghen tị “con trai lớp Hương trông ngời ngời!”.

Nhưng cái chuyện ở lớp có đủ 8 khuôn mặt “ngời ngời” đã nằm ngoài mơ ước của cả 19 đứa con gái lớp mình.

Mỗi năm, mục đích nghỉ học của các cậu khác nhau. Hồi mới vào trường thì còn mải chơi và nghỉ xả hơi, ngủ bét nhè. Sau đó thì nghỉ vì game. Hồi Võ Lâm truyền kỳ, nghe đâu lớp mình khối chàng thức thâu đêm...

Bây giờ thì khác một chút. Vài người có mối làm ăn với báo, đài.

Hôm học phóng sự, Hồng có nói đến chủ đề “sinh viên “nghiện” làm thêm”. Tự dưng tớ vận vào lớp mình.

Hôm mùng 8 tháng 3, khi lớp mình đi nhậu. Hoàng và Thành Nam chúc rượu ở bàn tớ, tớ có nói rằng: “Mong rằng những học kỳ còn lại, bọn tớ sẽ thường xuyên được nhìn thấy các bạn trai”. Tớ không nói câu đó để đùa. Và Hoàng-với bộ mặt rất là “thật”-nói: “Bọn tớ hứa”... Tớ cũng chẳng nhớ, nhưng mà tớ biết là hứa suông, vì Hoàng luôn như vậy. Các cậu đang bận chén thù chén tạc.

Đúng rồi, các cậu có nhiều việc thật quan trọng, và cái tập thể của mình chỉ là nơi tập trung thi học phần thôi. Các cậu làm thêm, các cậu có nhiều việc riêng, các cậu ngủ khỏe ở nhà,... tớ không có quyền can thiệp. Chỉ có điều càng ngày thấy lớp mình càng xa lạ với nhau.

Đâu rồi cái ngày mùng 8 tháng 3 thi nấu ăn, rồi Hot Boy, Hot Girl? Những nỗ lực để lôi kéo mọi người lại gần nhau thật là khó. Có lẽ vì thế mà lớp mình thường kém trong bài tập nhóm, luôn bất đồng, chỉ lăm le làm riêng, 27 cái “tôi” rạng rỡ! Nhiều lần lớp đi chơi nhưng không bao giờ đủ người cho đến cuối cùng. Vì sao thế? Vì lớp mình cũng chia nhóm mà chơi. Vì những tấm lòng không muốn hòa nhập. Vì những cánh tay hờ hững đối với yêu thương.

“Cha chung không ai khóc”, mỗi người tự lo việc của mình. Nhưng khi có bài tập, kiểm tra trình thì nhăm nhăm chép bài đám con gái, hay là chép bài của Minh, Dũng. Sao lúc đó xích lại gần nhau ghê thế? Và khi điểm số, thưởng phạt có gì sai sót, rồi không đủ điều kiện thi học phần thì mới cuống lên, gọi điện ầm ầm. Không biết lớp mình đã có ai được “sắp mâm” sẵn chưa, mà có vẻ không quan tâm đến kết quả học tập thế nào, bị trừ điểm, khiển trách, cảnh cáo cũng chẳng sao.

Từ khi nhiều người đi làm thêm, tớ thấy có Minh vẫn giữ được phong độ học trên lớp. Ai cũng sút đi mà vẫn vui vẻ, yêu đời, chắc vì các cậu đã có sẵn năng khiếu chăng?

Trong lớp mình, tớ phục nhất là Hồng Bi, Nhung CNN. Nhung học 2 trường, dù nghỉ nhiều, nhờ người đi hộ, nhưng học hành rất ổn, vẫn dịch sách và đã có mấy cuốn được xuất bản. Hồng cũng học 2 trường, học thêm buổi tối, vẫn đi học đều, vẫn dịch tin cho HHT đều, mấy “ngón” trên mạng rất “nghề”, mấy phần mềm ứng dụng khá thạo, nấu ăn rất ngon. 2 đứa chúng nó vẫn làm nhóm rất tốt.

Giờ đã là kỳ thứ 6. Dù có chán đến đâu cũng nên xác định rõ mục đích của mình. Nếu thấy chán học thì nghỉ quách, đi làm luôn đi, nhưng có nghề ngỗng gì mà người ta cho làm hả giời?

ĐÂU DỄ KIẾM ĐƯỢC TIỀN CỦA THIÊN HẠ.

The Unique

Người ta nói: THÔ nhưng mà THẬT

Hỏi: “Theo mày, blog là gì?”

Đáp: Là thứ rác rưởi, là vớ vẩn, là giết thời gian, là không sống thật với chính mình.

Hỏi: Nhưng sao mày viết?

Đáp: Thì cũng rác cả thôi, giết thời gian!

Hỏi: Nó có phải là nhật ký?

Đáp: 1 phương diện nào đó.

ori: Tại sao?

Đáp: Nhật ký, người ta có thể viết nhiều thứ bí mật (vì thế mới giấu tiệt đi, ai tò mò đọc trộm là bị xỉ vả vô tội vạ). Còn blog, người ta đang tự quảng cáo bản thân đấy. Vì thế nó luôn nhiều cái tốt, cái gọi là “cá tính”. Có mấy ai đem chuyện xấu của mình ra cho cả thế giới biết? Đôi khi, họ sống như một con người khác, hay cố tỏ ra mình cá tính.

Hỏi: Còn mày?

Đáp: Cũng thế cả, làm vì giết thời gian, chán thì thôi, không ý nghĩa gì. Mày có nhớ không? Hôm tao với mày nói chuyện, tiết 1 thì mày nói gay gắt, quyết tâm vì câu chuyện là nóng hổi nhất. Đến tiết 2, khi mày đã có 45’ suy nghĩ, mày đổi lại hoàn toàn. Thế đấy. Blog là những con chữ đã được sàng qua vài lần, có sửa chữa chán rồi. Nó đã trở thành sản phẩm có gọt dũa, vì thế nó không còn giữ nguyên bản chất của nó. Cũng như tính định hướng của Báo chí thể hiện ở cách lựa chọn sự kiện, thể loại,...

Hỏi: Vậy mà K. nói blog thể hiện đúng là mày!

Đáp: Đánh đậm cá tính đấy, bằng cách chuyển tải mới đối với 100% sự thật. Nói chung thì sự thật luôn xù xì và thô ráp.

(Viết cho B.và K.)

The Unique

Tại sao -Tại sao có tục đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng đôi đũa trên bát cơm, cài quả trứng vào giữa hai chiếc đũa rồi thắp hương đặt lên trên đầu người chết suốt trong thời gian chưa nhập quan?

-Tại sao người ta cắm một cái cọc bằng kim loại suốt chân giường người chết?

-Tại sao khi chưa nhập quan, người ta luôn luôn thắp hương nến (nếu không có nến thì thắp ngọn đèn dầu) cho đến khi hạ huyệt không để tắt hương đèn?

-Tại sao hai bên hương án, phía gần kề áo quan, người ta đặt hai cây chuối con?

-Tại sao có tục dựng bó đuốc to ở giữa sân vào ban đêm trước lễ an táng (nếu để qua đêm), con cháu và thân nhân túc trực quanh linh cữu (lễ "Chúc thực" ban đêm, nghĩa là "lễ trồng bó đuốc"?)

-Tại sao có tục kiêng ngăn người nhà không được đứng cạnh thi hài mà khóc, tránh nhỏ nước mắt vào thi hài?

- Tại sao sau lễ nhập quan phải đốt lỗ hung (lỗ đào ở chính giữa giường người mới chết nằm khi chưa nhập quan. Chất đốt có thể dùng trấu, than , củi hoặc giẻ rách...).

-Tại sao lễ tang là việc buồn lại đốt pháo? (Tục này chỉ có ở thành phố đối với người già).

-Tại sao phải nhốt mèo khi nhà có người mới chết ?

-Tại sao khi người chết trong nhà, người ta phải trèo lên mái nhà dỡ một vài viên ngói, hoặc lá tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa)?

Những câu hỏi trên cùng có chung một câu trả lời: Đó là kinh nghiệm dân gian,dùng phép thuật điều hoà khí âm dương, thu hút tà khí để phòng chống hơi lạnh và phòng xa hiện tượng "Quỷ nhập tràng". Xuất phát từ kinh nghiệm, dần dần bắt trước nhau trở thành phong tục. Dùng khói lửa, ánh sáng mặt trời (đốt hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái nhà, mở rộng cửa, đào lỗ hung, đốt pháo...) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả trứng, cây chuối... để thu hút hơi lạnh (nếu bổ đôi quả trứng, có nhiều lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để đánh gió.). Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy qua xác chết, kiêng khóc nhỏ nước mắt vào thi hài hoặc cắm cọc kim loại dưới giường người chết, dỡ mái nhà... là những thuật triệt tiêu luồng điện âm dương hút nhau. Ngoài ra, những người đến dự lễ tang, nhất dự khâm liệm còn có những thuật khác để phòng chống hơi lạnh như ngậm gừng sống, uống nước lá nhót, ăn trầu và xông khói vỏ bưởi, bồ kết trước và sau khi đến lễ tang.

The Unique



Mỗi người bạn đều là một vì sao sáng trên bầu trời đêm. Những vì sao toả sáng cho mình trên con đường đi. Những vì sao thật gần mà cũng thật xa, tưởng như với tới được mà lại tít tắp...

Và dù nói thế nào thì với một người con gái, những người bạn LÀ CON TRAI vẫn luôn có vị trí thật đặc biệt.

Không biết với mọi người thì sao, nhưng mình luôn có cảm giác vui vẻ khi buôn dưa với những cậu bạn trai, cho dù mình không thích họ lắm, cho dù có nói chuyện hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì, cho dù họ nói gì mình cũng chẳng quan tâm, chẳng để ý, chẳng hiểu. Tóm lại, nhiều khi mình chỉ cần nghe và ừ hử theo, chứ cũng chẳng biết họ huyên thuyên cái quái gì nữa. Chả sao.

Rồi đến cả những cậu bạn mình tình cờ quen qua người khác hay là quen trên mạng. Nhiều khi nhắn tin mà họ đã dám bày tỏ tình cảm này nọ, tự dưng thấy con trai bây giờ sao mà XÔ BỒ thế không biết. “Ah, hồi đầu mình nghĩ chỉ trêu cậu thôi, nhưng hình như giờ không phải thế”, đại loại thế. Nhưng mình vẫn khoái, thế mới điên!

Biết là cái trò điện thoại ấy fí tiền rồi. Nhưng có cho tiền mình cũng không định gặp mặt. 1 là sợ ngta gặp 1 lần mà chạy luôn. 2 là mình gặp ngta 1 lần rồi mất ấn tượng đẹp. Thà cứ cho nó thực thực ảo ảo mà lại hoá hay. Kể cả anh Phiung, mình còn chả nhớ mặt từ hồi 1 năm trước nhưng 2 anh em vẫn chơi với nhau rất vui, như là người nhà. Sinh nhật 2 năm anh đều hát Happy birthday cho mình nghe. Bản thân mình không cần nhiều ở họ, chỉ là ai đó nói chuyện thôi.

Rồi mình thích cái cảm giác giận ngta bằng tin nhắn. Lâu lâu đánh 1 quả làm cho ngta fải lo lắng te te. Cũng vui, như kiểu giận dỗi và xin lỗi của cái bọn yêu nhau. Ờ, lại chuyện yêu đương, mình chúa ghét cái trò đó. Mất mấy ng bạn vì chuyện đó rồi mà. Đâu có nhất thiết 1 trai 1 gái chơi thân thân, vui vui là fải yêu đâu, đúng không?

The Unique



Nguyễn Hưng Quốc

Tiếng Việt: Mày, Tao, Mi, Tớ...

Kinh nghiệm rút ra từ nhiều năm dạy tiếng Việt ở hải ngoại cho tôi thấy, đối với những người mới học, trong tiếng Việt, có hai điều khó nhất: thanh điệu và cách xưng hô. Ðối với những ngoại quốc học tiếng Việt, hai cái khó ấy cơ hồ ngang nhau, dù cái khó thứ nhất, về thanh điệu, cần phải được ưu tiên khắc phục trước, để từ đó, học viên mới có thể phát triển được khả năng nghe và nói của họ. Ðối với học viên Việt Nam sinh trưởng ở nước ngoài, cái khó về thanh điệu thường không đến mức quá trầm trọng: dù chưa bao giờ chính thức học tiếng Việt, họ cũng đã từng nghe cha mẹ và bà con chuyện trò bằng tiếng Việt, đã quen với cái điệu lên bổng xuống trầm của tiếng Việt, vì vậy, thường, không cần có tài thẩm âm lắm, họ cũng có thể phân biệt được sự khác nhau giữa những chữ, chẳng hạn, MA, MÁ, MÀ, MẢ, MÃ, và MẠ. Tuy nhiên, cả người ngoại quốc lẫn người Việt sinh trưởng ở nước ngoài đều cảm thấy lúng túng về cách xưng hô trong tiếng Việt.

Mà không phải chỉ có những người mới học. Ngay cả những người sử dụng tiếng Việt cực kỳ thành thạo cũng có lúc, thậm chí, nhiều lúc cảm thấy bối rối trong việc xưng hô. Ai cũng biết cách xưng hô của người Việt chủ yếu dựa vào quan hệ đẳng cấp và tuổi tác. Ðẳng cấp thì có nhiều loại: không nhất thiết phải là chức vụ trong hệ thống công quyền, ngay cả thứ bậc trong gia đình hay một số nghề nghiệp trong xã hội cũng là những đẳng cấp cần tuyệt đối tôn trọng trong cách xưng hô. Ngày xưa, đẳng cấp là nguyên tắc chủ đạo. May là thời ấy, ý niệm tôn ti còn nặng nên người nào an phận người nấy, vấn đề xưng hô chắc không mấy khi cần phải đặt thành vấn đề; cứ hễ gặp người có chức tước cao hơn mình thì cứ cúi đầu và khom lưng xuống, “bẩm quan”, “bẩm cụ”. Muốn cho chắc ăn hơn nữa thì thêm tính từ “lớn” sau các chữ “quan” hay chữ “cụ” ấy. Những người làm quan được gọi là “quan”, đã đành. Những người không phải là quan nhưng trông có vẻ hơi sang sang một chút cũng được gọi là “quan”. Bác sĩ là “quan”: “quan đốc”. Nhà báo cũng là “quan”: “quan tham nhựt trình”. Không “quan” thì là “thầy”: nghề gì dính đến giấy mực đều là “thầy”: thầy thông, thầy ký, thầy cò, v.v… Từ 1945 đến nay, tất cả những kiểu xưng hô phong kiến như thế đều bị bỏ. Ngay những cách gọi “ông” hay “bà” cũng bị cho là khách sáo và cổ hủ: Bỏ. Cách xưng hô trở thành thân mật hơn: hễ ai bằng hoặc lớn tuổi hơn bố mẹ mình thì mình gọi là “bác”; trẻ hơn chút thì gọi là “chú” hay “cô”; bằng hoặc lớn tuổi hơn mình thì mình gọi là “anh” hay “chị”; trẻ hơn thì gọi là “em”. Ðại khái thế. Nguyên tắc thì đơn giản nhưng việc thực hiện không phải không phức tạp. Ðiều những người ngoại quốc học tiếng Việt thường phàn nàn nhất là: rất khó đoán tuổi người Việt Nam. Ai cũng có vẻ trẻ măng cả. Hơn nữa, trong các cuộc chuyện trò mặt đối mặt thì còn đỡ. Nói chuyện qua điện thoại mới khó. Làm thế nào để có thể xác định được ngay người ở đầu dây bên kia khoảng bao nhiêu tuổi để xưng hô cho thích hợp? Chịu. Thú thực, tôi đã bao nhiêu lần nghe các sinh viên nêu lên cái câu hỏi ấy. Vẫn không biết trả lời thế nào cho thực ổn.

Nguyên tắc dựa vào tuổi tác, tưởng dễ, cũng có vô số ngoại lệ. Ví dụ, với người trẻ hơn mình thì mình có thể gọi là “em”. Nhưng thế nào mới được gọi là trẻ hơn mình? Một tuổi? Năm tuổi? Mười tuổi? Ở lứa tuổi 20, việc xưng là “anh/chị” và gọi người khác là “em” trong những lần gặp đầu tiên có khi còn thể tất. Nhưng từ khoảng lứa tuổi 30, 40 trở lên, khi người ta đã có gia đình và đã có chút địa vị trong xã hội, việc xưng hô như thế rất dễ bị xem là suồng sã, thậm chí, lỗ mãng. Tôi có một người quen sau nhiều năm ở hải ngoại, cùng vợ về Việt Nam, gặp một số bạn bè mới. Ông ấy kể là, suốt cả hơn một tháng ở Việt Nam, ông vẫn không tránh được cảm giác kinh ngạc và bất bình khi nhiều người đàn ông ông mới quen, có khi, chỉ mới gặp lần đầu, đều gọi vợ ông là “em” và xưng “anh” một cách ngon ơ. Ông cảm thấy có cái gì như bị xúc phạm. Ngày trước, ở miền Nam, là một công chức thuộc loại khá cao, ông sống trong một môi trường khá nhiều lễ nghi. Lâu lắm, ông chưa nghe ai, trừ ông và những người thân trong gia đình, gọi vợ ông là “em” cả. Ông cứ đinh ninh chữ “em” ấy là một cái gì ít nhiều có tính độc quyền. Vậy mà…

Ngược lại, trong nhiều giới, đặc biệt là giới văn nghệ, không ít người chỉ muốn người khác gọi là “anh” hay “chị” thôi. Tôi nhớ, lần đầu tiên gặp Mai Thảo, tôi gọi ông là “bác”; ông xua tay: “anh đi.” Ừ, thì… “anh”. Tôi vừa gọi “anh” vừa thấy hơi ngường ngượng. Ông sinh năm 1926, lớn hơn tôi đến 30 tuổi. Riết, cũng quen dần. Sau đó, gặp Phạm Duy, lớn hơn tôi 35 tuổi, tôi cũng lại cứ anh anh em em. Sau đó, gặp Võ Phiến, lớn hơn Mai Thảo một tuổi và trẻ hơn Phạm Duy bốn tuổi, quen miệng, tôi cũng gọi bằng “anh”; ông có vẻ hơi… sửng sốt. Thoáng nhìn, tôi biết ngay, bèn đổi lại “bác”. Thì mọi chuyện lại yên ổn. Thành ra, ở đây, ngay trong giới văn nghệ, cũng chẳng có luật lệ gì cho việc xưng hô cả. Tuỳ người.

Những sự phức tạp, thậm chí, có thể nói lắt léo như thế đã có nhiều người đề cập. Trong bài này, tôi chỉ muốn đi vào một khía cạnh: tất cả những sự phức tạp và lắt léo trong cách xưng hô ấy tiết lộ điều gì trong văn hoá Việt Nam?

Tôi nghĩ đến hai điều:

Thứ nhất, qua việc sử dụng hệ thống từ vựng chỉ thân tộc làm đại từ nhân xưng, người Việt Nam đã biến gia đình thành hệ quy chiếu của quan hệ xã hội. Người nào ngang tuổi ông bà mình thì tự động trở thành “ông”, “bà”; người nào ngang tuổi chú bác cô dì thì tự động trở thành “chú”, “bác”, “cô”, “dì”; người nào ngang tuổi anh chị thì tự động biến thành “anh”, “chị”, v.v… Như thế, xã hội được xem như một gia đình mở rộng. Nền tảng của gia đình là huyết thống. Ðiều này, tôi nghĩ, giải thích tại sao người Việt không sử dụng một số từ như “vợ”, “chồng”, “dâu” và “rể” làm đại từ nhân xưng. Trước đây, đã có người nêu ý ấy. Cao Xuân Hạo phản bác: “thím” và “dượng” đâu khác gì “dâu” và “rể”? Cũng là những người ở ngoài huyết tộc cả thôi.[1] Tuy nhiên, tôi nghĩ, những trường hợp này không giống hẳn nhau. “Thím” và “dượng” là những cách gọi từ những người thuộc vai cháu; trong khi “vợ”/“chồng” và đặc biệt, “dâu”/“rể” là những thuật ngữ được dùng bởi những người đang đứng ở vai trên: cha mẹ. Người thuộc vai dưới phải chấp nhận vị thế của người trên, trong khi đó, người bề trên có quyền khống chế người dưới: vợ chồng phải biến thành “anh”/“em”; dâu và rể phải biến thành “con”/“cháu” mới thực sự biến thành những thành viên ruột thịt trong gia đình.

Xem xã hội như một gia đình mở rộng cũng là một điều hay. Ừ, thì… hay. Nhưng dở, cũng lắm chuyện dở. Dở nhất, theo tôi, là với cách nhìn ấy, người Việt Nam rất khó xây dựng được một xã hội công dân thực sự, ở đó, tư cách mỗi người được xác định bằng một tiêu chí duy nhất: luật pháp. Không phải ngẫu nhiên mà ở Việt Nam, chỉ có một nơi duy nhất cách xưng hô dựa trên hệ thống từ thân tộc hoàn toàn bị loại bỏ: toà án. Nghĩ cũng phải chứ. Chẳng lẽ quan toà lại phán: “cháu tuyên án bác 30 năm tù khổ sai vì tội giết người có vũ khí.” hay: “Anh phạt em 2 năm tù ở vì tội làm điếm.” Chẳng lẽ thế? Thế nhưng, tại sao trong các cơ quan công quyền khác, người ta lại cứ tiếp tục bác bác cháu cháu? Nghe, dễ tưởng là thân mật, thậm chí, dân chủ nữa, nhưng theo tôi, chính cái cách xưng hô như thế đã góp phần ngăn chận quá trình dân chủ hoá của Việt Nam: người xưng “bác” hay xưng “chú” có thể tiếp tục độc đoán và người xưng “cháu” tiếp tục chấp nhận những sự độc đoán ấy là những điều bình thường. Có thể nói, cách xưng hô như thế rất dễ làm triệt tiêu cảm giác phẫn nộ chính đáng của người dân khi đối diện với những sự bất công. Mà không có cảm giác phẫn nộ ấy thì sẽ không thể nào có được một xã hội công dân thực sự.

Thứ hai, cách xưng hô trong tiếng Việt cho thấy tính chất cụ thể trong ngôn ngữ và trong tư duy của người Việt. Chúng ta không hề có những khái niệm mang tính khái quát cao như các đại từ trong phần lớn các ngôn ngữ Tây phương: trong đối thoại, mỗi người, với tư cách cá nhân, đều thuộc một trong ba phạm trù: người phát ngôn (ngôi thứ nhất), người trực tiếp đón nhận việc phát ngôn (ngôn thứ hai); và người được đề cập đến trong nội dung của lời phát ngôn (ngôi thứ ba). Lấy tiếng Anh làm ví dụ: là kẻ phát ngôn thì ai cũng như nhau, cũng là “I” cả. Chuyện trò, tổng thống xưng “I” gọi “you” mà tên lính quèn cũng xưng “I” và gọi “you”. Trong tiếng Việt, chúng ta không có những khái niệm nào tương đương với những “I”, những “you” ấy. Hình như trong cách nhìn của nền văn hoá truyền thống Việt Nam, không có khái niệm cá nhân như một cái gì độc lập, chỉ được xác định bằng một tiêu chí duy nhất: hành ngôn. Cá nhân chỉ được định nghĩa theo các quan hệ nhất định: với người này, hắn là “ông”, với người nọ, hắn là “cha”, với người kia, hắn là “anh”, với người khác nữa, hắn lại là “em”, v.v…

Thử nghe lời nói này:

Lẹ lẹ lên nào. Coi chừng trễ chuyến bay bây giờ. Nội, nội đưa cái dù cho cháu cầm cho; còn ba đưa cái xách cho con. Còn anh nữa, anh cứ ra xe trước đi để em khoá cửa cho. À này..., mấy đứa xem giùm mấy cái cửa sổ phía sau mẹ đã khoá kỹ chưa? Lẹ đi. Trời ơi!

Chỉ qua mấy câu nói ngắn như vậy, chúng ta thấy là người phụ nữ đang nói chuyện với bốn, năm người khác nhau. Với mỗi người, chị làm một cuộc hoá thân: Với ông hoặc bà nội, chị xưng là “cháu”; với ba, chị xưng là “con”; với chồng, chị xưng là “em”, và với mấy đứa con, chị xưng là “mẹ”. Như vậy, người phụ nữ ấy thực sự là ai? Câu trả lời: không là ai cả. Chúng ta chỉ có thể xác định chị khi đặt chị trong mối quan hệ với những người khác. Ðặc biệt, tất cả những quan hệ ấy đều tạm thời: chúng thay đổi xoành xoạch. Mỗi sự thay đổi đều dẫn đến sự thay đổi trong tư cách của người phát ngôn. Có thể nói, với người Việt Nam, mỗi lần chuyện trò là mỗi lần đóng một vai nhất định: đóng vai ông/bà, đóng vai cha/mẹ, đóng vai con/cháu, đóng vai anh/em, v.v… Ðã vậy, người Việt còn có thói quen thích đóng các vai… giả. Ví dụ, một người đàn ông 50 tuổi có thể gọi một người đàn ông lạ khoảng 30 tuổi là “bác” và xưng là “cháu”: người ấy đang nhập vào vai đứa con của ông để gọi người khách. Ở Việt Nam, người ta gọi cách xưng hô như thế là lối nói khiêm. Trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng hay nhập vai con để gọi người phối ngẫu: vợ sẽ không gọi chồng là “anh” mà là “bố thằng cu” hay “bố nó” hay, gọn hơn, chỉ là “bố” suông thôi. Ngược lại, nói chuyện với chồng, người vợ có thể không xưng “em” mà lại xưng là… “mẹ”, kiểu:

“Bố ơi, chiều nay bố có đi Footscray không?”

“Có. Mẹ có cần gì không?”

“Ờ, bố mua cho mẹ thùng xoài nghe.”

“Xoài gì mà xoài. Mới ăn tuần trước mà. Ăn xoài nhiều nóng lắm, đâu có bổ béo gì...”

“Trời ơi, nóng với niếc gì, bố mày sao nhiều chuyện quá. Mùa này xoài đang rẻ, cứ cho con ăn cho đã. Hết mùa thì tụi nó lại nhịn.”

“Mẹ mày cứ hay chiều con...”

Ngày xưa, đặc biệt ở miền quê hay trong thơ văn, người ta còn cố gắng tránh tất cả mọi vai cụ thể như thế: người ta chỉ gọi là “ai” và xưng là “ai” một cách hết sức bâng quơ. Thuý Kiều nói với Kim Trọng: “Ðừng điều nguyệt nọ hoa kia / Ngoài ra, ai lại tiếc gì với ai.” Tản Ðà nói với người tình nhân không quen biết: “Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ / Ðể ai luống những nhớ ai hoài.” Thì cũng là những kiểu nhập vai giả, cái vai vô hình.

Nói chuyện là buộc phải đóng một vai nhất định. Do đó, trên nguyên tắc, bằng tiếng Việt, mọi cuộc đội thoại đều bất khả. Ðứng một mình, cá nhân sẽ không là gì cả. Mà đối thoại, nhất là tranh luận, cũng khó. Tôi đã chứng kiến, trong các cuộc họp hành, vô số những cuộc cãi cọ bằng tiếng Anh rất gay gắt. Cãi kịch liệt. Cãi đến nơi đến chốn. Thế nhưng, sau buổi họp, đâu lại vào đấy, mọi người lại là bạn bè, lại chuyện trò hoà nhã với nhau, như không hề có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên, cũng những người ấy, khi cãi với nhau bằng tiếng Việt thì lại khác. Khác hẳn. Ngay khi đang cãi cọ, người ta đã có thể linh cảm được là có cái gì đó đang đổ vỡ. Tại sao? Lý do chính, tôi đoán, chủ yếu là ở… tiếng Việt.

Mà thật. Cãi với nhau bằng tiếng Anh, mọi người đều bình đẳng ngay từ đầu: ai cũng là “I” và “you”. Từ vị thế bình đẳng ấy, người ta có thể an tâm tập trung vào lý luận để giành thắng lợi trong lý luận và bằng lý luận. Cãi với nhau bằng tiếng Việt thì khác. Từ khởi sự, đã có cái gì như không bình đẳng và cũng không sòng phẳng: người lớn tuổi hơn thì xưng “bác” hay “anh”, do đó, từ tiềm thức, đã mơ hồ cảm thấy mình đang ở thế bề trên, thế đàn anh; người trẻ hơn, ngược lại, phải xưng “cháu” hoặc “em”, do đó, cũng tự trong tiềm thức, đã có chút mặc cảm yếu thế. Ðể bù lấp cái mặc cảm yếu thế ấy, những người trẻ hơn, ngoài lý luận, thường tự động sử dụng một số biện pháp khác: khuôn mặt đanh lại một chút, giọng nói to lên một chút, giọng điệu chì chiết hơn một chút, chữ nghĩa nặng nề hơn một chút. Có khi người ta đổi cả cách xưng hô: bình thường thì anh anh em em; khi cãi nhau thì anh/chị với tôi. Ðối với những người tự đặt mình ở vị thế cha, chú, anh, chị… tất cả những điều ấy đều dễ dàng gây thương tổn. Nghe chữ “tôi” từ miệng một người vốn thường xưng “em” với mình, người ta dễ có cảm tưởng như bị hạ bệ hay bị phản bội. Cảm giác “đổ vỡ” không chừng xuất phát từ đó.

Cảm giác ấy càng rõ hơn khi vợ chồng cãi nhau. Bắt đầu cãi, đang tức, người vợ phải xưng “em”, càng dễ thấy… tức hơn. Cảm thấy như mình bị xử ép. Càng dễ bù lu bù loa hơn nữa. Vẫn thấy bị ép. Cứ phải xưng “em” là lại thấy bị ép. Bèn đổi thành “tôi” cho... ngang cơ. Chồng, chưa cần biết vợ nói đúng hay sai, chỉ cần nghe chữ “tôi” bất bình thường ấy, đã đùng đùng nổi giận, có cảm giác là vợ mình… hỗn láo, đòi đảo chánh… mình. Tôi tuyệt đối chống lại mọi hình thức bạo hành, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, nhưng tôi tin là tôi hiểu được lý do gì đã thúc đẩy nhiều gã đàn ông, trong những trường hợp như thế, đã không tự kìm chế được, phải vung tay lên: cái hắn muốn đánh, trước hết, là chữ. Chữ, chứ không phải là người.

Dĩ nhiên, cái gì cũng có mặt trái và mặt phải của nó. Tôi có người bạn lấy vợ Úc. Một lần, trong câu chuyện, anh buột miệng, nói: “Nghe vợ chồng người Việt Nam gọi nhau bằng anh em, nghe ‘đã’ dễ sợ!” Hồi nhỏ, nghe ba mẹ tôi gọi nhau bằng “mình”, tôi cũng có cảm giác “đã” tương tự. Vợ chồng tôi chưa bao giờ xưng “mình” với nhau, nhưng không hiểu tại sao, tôi cứ bị chữ “mình” ấy ám ảnh mãi. Một lúc nào đó, tôi chợt khám phá ra chữ “mình” ấy chứa đựng trong nó cả một triết lý về tình yêu của người Việt. Chứ còn gì nữa? Chúng ta đều hiểu ý nghĩa đầu tiên của chữ “mình” là bộ phận chính của thân thể. Trong những giờ vạn vật đầu tiên thời tiểu học, chúng ta đã học là thân thể người ta gồm ba phần: đầu, mình và chân tay. “Mình”, chiếm từ cổ xuống mông, là bộ phận lớn nhất của cơ thể, do đó, được đồng nhất với cơ thể: Nói “mình đầy mồ hôi” cũng là nói “cơ thể đầy mồ hôi”. Là toàn bộ cơ thể, “mình” biến thành “tôi”, ngôi thứ nhất số ít. Yêu nhau, khi hai biến thành một, người ta cho cái “mình” ấy cho người mình yêu: “mình” biến thành “em” hay “anh”, ngôi thứ hai số ít. Nhưng khi sự phân biệt giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai biến mất, khi “mình với ta tuy hai mà một”, “mình” tự động biến thành “chúng ta”, ngôi thứ nhất số nhiều. Như vậy, nếu dịch sang tiếng Anh, chỉ giới hạn trong phạm vi đại từ nhân xưng, chữ “mình”, tuỳ từng trường hợp, có thể là “I”, có thể là “you” và cũng có thể là “we”. Một chữ: ba ngôi.

Từ những sự biến nghĩa của chữ “mình”, chúng ta có thể loé thấy quan niệm của người Việt Nam về tình yêu và hôn nhân. Theo quan niệm đó, tình yêu không phải chỉ là một sự hoà nhập làm một; hai người yêu nhau không những chỉ thuộc về nhau. Đó là những quan niệm bình thường và quen thuộc ở khắp nơi. Với người Việt Nam, yêu nhau là đem cái chữ “mình” vốn chỉ cơ thể của mình tặng cho người mình yêu, là tự nguyện chuyển nhượng chủ quyền trên thân thể của mình cho người mình yêu, là dâng hiến cái mình của mình cho nhau. Hơn nữa, là biến người mình yêu thành cái “nhà”, thành không gian cư ngụ của mình: chỉ ở đó, người ta tồn tại.

Bởi vậy, riêng trong phạm vi xưng hô, nói tiếng Việt hay cũng được. Mà nói dở cũng được. Tôi không tin là, với tư cách người cầm bút, chúng ta có thể thay đổi được điều gì.

Viết bài này, tôi chỉ muốn gợi lên vài ý bâng quơ, vậy thôi.

4.2004

_________________________

[1]Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt Văn Việt Người Việt, Thành phố HCM: Nxb Trẻ, tr. 298 (chương “Mấy vấn đề văn hoá trong cách xưng hô của người Việt”). Về vấn đề xưng hô trong tiếng Việt, có thể xem thêm Võ Phiến (1999), Cảm nhận, California: Văn Mới, tr. 29-38 (chương “Cái tiếng mình nói”).